Nguồn gốc của danh từ ‘phản động’

Thuật ngữ “phản động” bắt nguồn từ tiếng Pháp “réactionnaire”, xuất hiện lần đầu tiên trong cuộc Cách mạng Pháp (1789–1799). Ban đầu, những người tự nhận là tiến bộ (người cấp tiến) sử dụng thuật ngữ này để chỉ những người bị xem là bảo thủ (conservatives), tức những người muốn duy trì trật tự xã hội theo các quan niệm truyền thống. Theo quan điểm của phe cấp tiến, những người bảo thủ – bao gồm phần lớn là hoàng tộc, quý tộc, giới tăng lữ, nghệ sĩ và trí thức – bị xem là cổ hủ, lạc hậu và là lực cản đối với tiến bộ xã hội.

Theo Từ điển CNRTL (Centre National de Ressources Textuelles et Lexicales), “réactionnaire” là một từ ghép từ “réaction” (phản ứng) và hậu tố “-aire”, lần đầu được sử dụng vào năm 1794 trong “Thời kỳ Khủng bố” (La Terreur). Nhiều tài liệu cho biết, Thời kỳ Khủng bố ghi nhận hàng chục nghìn người vì muốn bảo vệ các quan niệm truyền thống mà đã bị Cách mạng Pháp xử tử. 

Khi chủ nghĩa Marx-Lenin ra đời vào thế kỷ 19, thuật ngữ “phản động” trở thành một công cụ chính trị. Thuật ngữ “phản động” lúc này được mở rộng nghĩa, nó không chỉ ám chỉ những người bảo vệ các quan niệm truyền thống mà còn ám chỉ bất kỳ ai bị coi là kẻ cản trở các phong trào cách mạng vô sản. 

Từ “phản động” (反动) theo những người thiên tả xâm nhập vào Trung Quốc và dần trở thành một từ được sử dụng phổ biến sau khi ĐCSTQ xuất sinh vào năm 2021. Danh từ này đặc biệt được sử dụng dày đặc trong thời kỳ Cách mạng Văn hóa (1966-1976) để gán nhãn những người bị xem là không đồng tình với ĐCSTQ, bao gồm những người vốn được gọi là tinh anh của xã hội trước đây như trí thức, địa chủ, nhà tư sản. Hàng triệu người như vậy đã bị đàn áp, bị giam giữ hoặc bị hành quyết dưới danh nghĩa “tiêu diệt phần tử phản động”. Dần dà, hệ thống tuyên truyền của ĐCSTQ còn khiến người dân Trung Quốc hiểu rằng “phản động” chính là “phản quốc”.

Danh từ “phản động” và tính sát thương với văn hóa truyền thống

Văn hóa truyền thống ở phương Tây hay phương Đông đều dựa trên tín ngưỡng vào Thần trong các chính giáo hoặc các tín ngưỡng dân gian. Thần trong văn hóa truyền thống nói chung là hiện thân của từ bi, trí tuệ và năng lực siêu việt.

Phật Thích Ca Mâu Ni ở phương Đông hay Chúa Giê su ở phương Tây là Thần tại nhân thế. Bước đầu để chúng sinh có niềm tin, các ngài đều triển hiện siêu năng lực, tức thần thông. Sau đó họ giáo hóa để thức tỉnh chúng sinh. Với những cách diễn đạt khác nhau, các ngài cho chúng sinh biết bản chất của cõi người là khổ. Chân lý đầu tiên trong Tứ diệu đế của Phật giáo là Khổ đế. Trong khi Kinh Thánh Tân Ước, thuộc sách Tin Mừng Gioan, chương 16, câu 33, dẫn lời Chúa Giê su viết “Trong thế gian, anh em sẽ phải gian nan, khốn khó”. Vì thế con người cần hướng thượng, tức sửa mình để hướng tới đạo đức cao thượng, tránh ác theo thiện, từ đó có cơ hội trở về cõi niết bàn hay thiên đàng. 

Những điều Phật Thích Ca hay Chúa Giê su giảng khi còn tại thế về sau được ghi chép thành kinh và đặt nền tảng cho Phật giáo và Thiên Chúa giáo. Phật giáo giảng Ngộ, Thiên Chúa giáo giảng Tín. Giới tu luyện cho rằng, ngộ Pháp hay tín lời Chúa là tương tự, vì đều là cần đặt niềm tin vào pháp lý siêu thường của Thần, tức cần tín Thần, hành theo lời dạy của Thần thì sẽ đắc đạo. Những lời giảng của Phật Thích Ca Mâu Ni hay Chúa Giê Su theo thời gian lan tỏa trong dân gian giúp chúng sinh hình thành các quan niệm trong văn hóa truyền thống. Nên mới nói văn hóa truyền thống là văn hóa tín Thần.

Như vậy, Văn hóa truyền thống giúp con người hướng tới những điều tốt đẹp, đặc biệt là đặt định nền tảng cho văn hóa tu luyện người thành Thần. Người tu hành là những người giác ngộ, có đạo đức cao thượng, gần với Thần nhất nên những tu sĩ trong xã hội xưa từ Đông sang Tây rất có uy tín và ảnh hưởng, được xem là tầng lớp cao quý bậc nhất xã hội, được người dân, quan lại và hoàng đế đặc biệt kính trọng.

Trong văn hóa phương Đông, những vị vua bại hoại bị gọi là “hôn quân, vô đạo”, tức không còn đi theo “đạo” của Văn hóa truyền thống. Những vị vua như thế không thể được dung thứ, họ bị các thế lực khác lật đổ. Nếu lực lượng mới lên cầm quyền khôi phục lại những giá trị của Văn hóa truyền thống thì sẽ tiếp tục tiến vào những giai đoạn thịnh trị, xã hội yên ổn, hài hòa.

Tuy vậy, văn hóa truyền thống không tránh khỏi bị làm xói mòn dần dần theo sự biến thiên của thời cuộc. Các quan niệm mới, phá cách, dần len lỏi vào xã hội. Những quan niệm mới này có đặc điểm chung là kéo con người rời xa Thần.

Khi số người nhiễm những quan niệm mới đủ lớn, họ sẽ tìm cách lật đổ nền văn hóa truyền thống. Khi hôn quân xuất hiện, quan lại hư hỏng là điều kiện thuận lợi nhất cho những người tôn sùng hệ thống quan niệm mới thực hiện ý định của mình. Các cuộc cách mạng theo đó nổ ra.

Để phá hủy nền văn hóa truyền thống, việc đầu tiên họ làm là hủy hoại văn hóa vật thể. Bởi vì đó là những hiện thân trên bề mặt, lưu giữ và gợi nhớ các ký ức của văn hóa truyền thống. Cách mạng Pháp đã phá hủy vô số những thành tựu của nền văn hóa truyền thống, trong đó có nhiều sản phẩm nghệ thuật hướng về Thần. 

Những người tham gia Cách mạng Pháp đã phá hủy nghiêm trọng Nhà thờ Đức Bà Paris (Notre Dame de Paris). 28 bức tượng vua Do Thái trên mặt tiền của nhà thờ bị chặt đầu. Nhiều thánh tích và đồ thờ trong nhà thờ bị cướp phá hoặc đập nát. Mái nhà thờ bị tháo dỡ để lấy chì làm đạn, khiến nội thất của nhà thờ bị hư hại do mưa gió.

Cách mạng Pháp cũng đã khiến hàng ngàn nhà thờ, tu viện bị đóng cửa, bị đổi mục đích sử dụng, bị bán đấu giá hoặc bị phá hủy. Các biểu tượng tôn giáo như thánh giá, chuông, tượng bị đập phá. Nhiều nhà thờ bị chuyển thành nơi phục vụ cho các nghi lễ thế tục.

Các cửa sổ của Nhà thờ Sainte-Geneviève (nay là Panthéon) bị những người cách mạng bịt kín để tạo không gian u tối, các biểu tượng tôn giáo bị thay thế bằng tranh và tượng mang chủ đề mang tính thế tục.

Việc phá hủy các di sản văn hóa truyền thống quý giá diễn ra khốc liệt hơn trong trong thời kỳ Công xã Paris (1871).

Vào ngày 24 tháng 5 năm 1871, những người tham gia Công xã Paris đã đốt cháy Tòa thị chính Paris khiến toàn bộ thư viện và kho lưu trữ của thành phố, bao gồm hồ sơ dân sự từ năm 1515, bị tiêu hủy.  Cung điện Tuileries, Orsay và Légion d’honneur bị đốt cháy, thiệu rụi nhiều tác phẩm nghệ thuật quý giá. Thư viện Louvre bị hư hại do hỏa hoạn lan từ Cung điện Tuileries, dẫn đến việc mất mát nhiều tài liệu và bản thảo quý giá.

Các bộ sưu tập nghệ thuật quý của Prosper Mérimée, của Jacques-Édouard Gatteaux hay bộ sưu tập của Jules Michelet cũng bị thiêu rụi. Ngoài ra còn nhiều tài liệu, tư liệu quý cũng bị dìm trong biển lửa của những người làm cách mạng.

Thuật ngữ “phản động” ra đời trong thời kỳ bùng nổ của Cách mạng Pháp. Rõ ràng thuật ngữ này ra đời từ nhu cầu chính trị của những người cấp tiến, là sản phẩm của tư duy phản Thần, nó hoàn toàn được tạo ra không dựa trên chuẩn mực đạo đức hay triết lý nhân văn truyền thống của xã hội Pháp.

Có thể hình dùng rằng trong khi nóng lòng muốn lật đổ cấu trúc của xã hội cũ, những người làm cách mạng Pháp muốn tìm ra một danh từ có tính sát thương mạnh để tấn công những người bảo thủ vốn không chịu chấp nhận những ý tưởng “phá cách” của họ, và đó là lúc thuật ngữ “phản động” được tạo ra.

Với nguồn gốc sinh mệnh như vậy, thuật ngữ “phản động” đương nhiên là sản phẩm đối lập với văn hóa truyền thống. Sự nguy hiểm của thuật ngữ này ở chỗ, nó rất ngắn gọn, dễ nhớ, dễ gây ấn tượng mạnh, là diễn ngôn của những người tự tô vẽ mình là đại diện cho tiến bộ, cho sự dũng cảm phá bỏ các ràng buộc của quan niệm cũ. Do đó, thuật ngữ “phản động” nhanh chóng trở thành một vũ khí lợi hại và tiện dụng của lực lượng muốn đập tan, phá nát văn hóa truyền thống. 

Nó lợi hại vì chỉ cần ai đó bị chụp cho chiếc mũ “phản động” thì lập tức bị bôi xấu với đủ các nghĩa tiêu cực mà thuật ngữ này bao gồm như chống lại tiến bộ xã hội, chống lại phong trào cách mạng và khủng khiếp hơn là “phản quốc”. Nó còn tiện dụng vì chỉ cần hướng về người bị công kích mà nói hai từ “phản động” thì đối thủ lập tức bị chiếc mũ “phản động” làm cho tối tăm mặt mũi, mất hết tinh thần và nhuệ khí trước khi phản kháng, bởi hai từ “phản động” rất “gọn nhẹ” ấy mang theo sau nó sức ép to lớn từ cả thế lực và hệ thống lý luận bài xích văn hóa truyền thống.

Vì hiệu quả như vậy, nên thuật ngữ phản động đặc biệt được sử dụng phổ biến ở Trung Quốc. Đây là quốc gia có nền văn hóa truyền thống lâu đời nhất thế giới và lại cũng có ĐCSTQ là thực thể cực tả bậc nhất thế giới.

Việc lạm dụng thuật ngữ “phản động” ở Trung Quốc

Văn hóa truyền thống Trung Hoa có lịch sử hơn 5000 năm, được xem là nền văn hóa do Thần truyền, với ba trụ cột chính là Phật giáo, Đạo giáo và Nho giáo.

Đạo giáo và Phật giáo đều cho rằng cõi người là nơi ô trọc, đầy hiểm ác và xấu xa, nên khuyên con người hướng thiện, tu luyện để trở về thiên quốc. Đạo gia giảng “Bạch nhật phi thăng”, có nghĩa là người sau khi hoàn thành việc tu tâm dưỡng tính sẽ đắc đạo và thăng Thiên, trở thành thần tiên, thoát ly khỏi cõi người. Phật giáo giảng, người tu luyện đắc đạo thì tới được cõi niết bàn, nơi vĩnh viễn không còn khổ đau. Trong những văn bản cổ đã kể về nhiều người tu luyện thành Thần, điều này chứng thực việc tu luyện chân chính theo các chính Pháp là cách để con người thoát ly khỏi hồng trần. Nho giáo cũng có ảnh hưởng sâu sắc tới văn hóa truyền thống Trung Hoa, tuy không giảng trực tiếp về tu luyện để trở về Thiên đàng, nhưng giảng rất rốt ráo về việc con người cần tu dưỡng đạo đức theo các tiêu chuẩn Nhân-Nghĩa-Lễ-Trí-Tín. 

Từ khi ĐCSTQ nắm quyền vào năm 1949, thuật ngữ “phản động” thường xuyên được sử dụng trong các cuộc vận động chính trị. Những ai bị ĐCSTQ dán nhãn là “phản động” đều bị công khai đấu tố, tước đoạt quyền lợi và thậm chí bị tra tấn đến chết. Tầng lớp tinh hoa văn hóa và tri thức Trung Hoa đã chịu tổn thất nghiêm trọng, gây ra sự gián đoạn trong việc kế thừa tinh thần văn hóa truyền thống.

Trong phong trào “Trấn áp phản cách mạng” đầu thập niên 1950, hàng trăm nghìn người bị xử tử hoặc bắt giam vì bị gán là “phản động”, chủ yếu dựa trên tiêu chí mơ hồ như có liên hệ với chế độ Quốc Dân Đảng hoặc phản biện lại chính quyền.

Sau đó, trong Cách mạng Văn hóa (1966-1976), từ “phản động” tiếp tục được dùng để đàn áp trí thức bao gồm các học giả, các văn nghệ sĩ và thậm chí cả các cán bộ cao cấp trong chính phủ. Ngay cả chủ tịch nước đương nhiệm Lưu Thiếu Kỳ (1898–1969) khi không còn chung quan điểm với Mao Trạch Đông, lãnh đạo tối cao của ĐCSTQ, liền lập tức bị gán nhãn là “phản động”, bị khai trừ khỏi đảng. Sau đó, Lưu bị bắt giữ, giam lỏng và chịu đựng các cuộc đấu tố, nhục mạ công khai. Ông bị chuyển đến một nhà tù ở Khai Phong, nơi ông qua đời ngày 12 tháng 11 năm 1969 trong tình trạng bị bỏ mặc, không được điều trị bệnh tiểu đường và viêm phổi. 

Sách Cửu Bình đã dẫn ra một ví dụ về một trường hợp bị chụp mũ là “phản động” và bị Hồng vệ binh tra tấn cho tới chết. 

Vào ngày 5 tháng 8 năm 1966, Biện Trọng Vân, một cô giáo của Trường Trung học Nữ thuộc Đại học Sư phạm Bắc Kinh, sau khi bị gán nhãn phản động vì có tư tưởng bảo vệ văn hóa truyền thống, đã bị các nữ sinh của mình bắt diễu đi trên phố, đội một chiếc mũ lừa cao làm bằng giấy (chuyên dành để đội vào đầu những học sinh học dốt), mặc quần áo vấy đầy mực đen, quàng một chiếc bảng đen sỉ nhục qua cổ, đi giữa đám học sinh mang những thùng rác làm trống để vỗ. Cô bị bắt phải quỳ trên mặt đất và bị đánh bằng một cái gậy gỗ có đóng đinh lởm chởm và bị đổ nước sôi lên người. Cô đã tử vong sau chuỗi hành động tra tấn của những học sinh nhiễm tư tưởng gọi là “tiến bộ” của ĐCSTQ.

Những người có công với Trung Quốc nhưng có liên hệ với những lực lượng mà ĐCSTQ coi là “phản động” cũng bị tấn công ngay cả khi đã chết. Sách “Giải thể văn hóa ĐCSTQ” cho biết, Ngay khi cuộc Cách mạng Văn hóa mới bắt đầu đã bị đánh đổ, bôi nhọ. “Nghĩa trang liệt sỹ không quân” tại Nam Kinh mà Chính phủ Quốc dân Đảng an táng hơn 100 liệt sỹ không quân đã hy sinh trong chiến tranh kháng Nhật tại khắp nơi trên toàn Trung Quốc, các giảng viên của Mỹ, phi hành viên Liên Xô đã hiến thân trong cuộc chiến tranh Trung Quốc kháng Nhật; nhưng vì sinh mệnh của họ chiến đấu cho “chính phủ phản động” nên khi cuộc Cách mạng Văn hóa mới bắt đầu, các Hồng vệ binh đã mở nắp những ngôi mộ, đập phá mộ của các liệt sỹ. Toàn bộ hài cốt các vị liệt sỹ bị quăng quật phân tán khắp nơi.

Ngay cả những nhà khoa học xuất sắc hàng đầu thế giới nếu không phù hợp với hệ tư tưởng của ĐCSTQ cũng lập tức bị gán nhãn “phản động”. Thomas Hunt Morgan (1866–1945) là một nhà di truyền học người Mỹ, được mệnh danh là “cha đẻ của di truyền học hiện đại”, tuy nhiên ông bị ĐCSTQ phê phán vì những nghiên cứu của ông không ủng hộ hệ tư tưởng của họ. Thậm chí, nhà khoa học lỗi lạc Einstein còn bị hệ thống tuyên truyền của ĐCSTQ gọi là “kẻ phản động lớn nhất trong giới học thuật của giai cấp tư sản trong giới khoa học tự nhiên”, còn Thuyết tương đối của ông thì bị nói thành “từ đầu chí cuối đều là siêu hình học chủ 

nghĩa duy tâm.”

Sự tùy tiện trong việc gán nhãn phản động được chỉ đạo từ Mao Trạch Đông. Mao từng thẳng thắn tuyên bố rằng “Chính là phải ‘tước đoạt quyền phát ngôn của phái phản động, chỉ để nhân dân có quyền phát ngôn’.” Ai là nhân dân, ai là phái phản động? có lẽ chỉ có định nghĩa của ĐCSTQ mới được tính.

Sự lạm dụng thuật ngữ “phản động” đã tạo ra một bầu không khí sợ hãi và kiểm soát trong xã hội Trung Quốc. Khi một cá nhân hoặc nhóm bị gán mác “phản động”, họ gần như mất hết quyền lợi công dân, bị cô lập khỏi xã hội và đứng trước nguy cơ cao đối mặt với những hình phạt khắc nghiệt. Điều này không chỉ làm suy yếu sự phát triển của xã hội mà còn tạo ra sự bất ổn trong nhận thức về giá trị đạo đức và văn hóa.

Ngoài ra, việc tùy tiện quy kết người khác là “phản động” còn khiến người dân phải tự kiểm duyệt, không dám bày tỏ quan điểm cá nhân, dẫn đến sự thụ động và thiếu sức sống trong đời sống trí thức. Văn hóa tranh luận và tư duy phản biện – vốn là một phần quan trọng của nền văn hóa truyền thống Trung Hoa – theo đó đã bị bóp nghẹt, thay vào đó là sự áp đặt tư tưởng một chiều của ĐCSTQ.

Hiện nay, thuật ngữ “phản động” vẫn được sử dụng rộng rãi trên các nền tảng mạng xã hội và phương tiện truyền thông của ĐCSTQ. Những bài viết, bình luận hoặc quan điểm bị cho là đi ngược lại quan điểm của ĐCSTQ dễ dàng bị gán nhãn “phản động” và bị kiểm duyệt ngay lập tức.

Các “cảnh sát internet” của chính quyền Trung Quốc trên các nền tảng như WeChat, Weibo, Douyin không chỉ xóa bài viết bị xem là “phản động” mà còn có thể chặn tài khoản hoặc áp đặt các hình phạt nghiêm khắc đối với người dùng. Việc gán nhãn này khiến nhiều cá nhân phải tự kiểm duyệt, hạn chế khả năng trao đổi thông tin, từ đó làm suy giảm tinh thần tự do tư tưởng và sáng tạo của xã hội.

Giới trẻ Trung Quốc ngày nay tiếp xúc với công nghệ và thông tin nhiều hơn bao giờ hết, nhưng họ phải đối mặt với một môi trường kiểm soát tư tưởng chặt chẽ. Những khái niệm như “phản động” được lồng ghép vào giáo dục và truyền thông nhằm định hướng tư tưởng của thế hệ trẻ, khiến họ có xu hướng đồng nhất với quan điểm của chính quyền và xa lánh những luồng tư tưởng khác biệt.

Điều này làm giảm khả năng tư duy phản biện, khiến giới trẻ ít có cơ hội tiếp cận với những góc nhìn đa chiều về lịch sử, chính trị và xã hội. Họ có thể dễ dàng tiếp nhận một cách thụ động những gì được truyền tải mà không có cơ hội đặt câu hỏi hay tranh luận.

Không chỉ trong lĩnh vực chính trị, thuật ngữ “phản động” còn thấm sâu vào đời sống thường nhật ở Trung Quốc, ảnh hưởng đến cách người dân tương tác với nhau. Sự sợ hãi bị gán mác “phản động” khiến nhiều người tránh bày tỏ quan điểm của mình ngay cả trong các cuộc trò chuyện riêng tư.

Cần nhìn nhận lại cách sử dụng thuật ngữ “phản động”

Trong bối cảnh toàn cầu hóa, các quốc gia ngày càng hướng tới những mô hình xã hội cởi mở hơn, nơi mà sự khác biệt không bị đàn áp mà được tôn trọng và lắng nghe. Việc duy trì một định nghĩa hẹp hòi và mang tính áp đặt về “phản động” chỉ khiến xã hội tự cô lập và tụt hậu so với thế giới.

Thay vì sử dụng “phản động” như một công cụ đàn áp, hãy cần quay lại với tinh thần của văn hóa truyền thống, khuyến khích bao dung và đối thoại thay vì áp đặt hay loại trừ.

Việc nhìn nhận lại cách sử dụng thuật ngữ “phản động” không chỉ giúp giải phóng tư duy mà còn góp phần tạo dựng một xã hội lành mạnh hơn. Một xã hội thực sự mạnh mẽ không phải là xã hội không có bất đồng, mà là xã hội biết cách quản lý và tôn trọng những khác biệt. Sự phát triển bền vững không thể dựa trên sự kiểm soát tư tưởng, mà phải xuất phát từ sự tôn trọng quyền tự do và phẩm giá con người.

Lục Du