Group News: Tin copy

Loạt bài viết này chia sẻ những kết quả sơ bộ của một nghiên cứu độc lập, tập trung vào chủ đề hòa hợp dân tộc trong ba khía cạnh: hiện trạng, nguyên nhân và giải pháp.

Cờ VN

Con số 100 tượng trưng cho trăm trứng từ bào thai của mẹ Âu Cơ.

Một trăm người Việt tuổi từ 25 đến 99, từ đủ mọi nẻo đường của cuộc sống đã góp tiếng nói vào dòng chảy của những câu chuyện này.

Những phần trong ngoặc kép là lời của nhân vật. Tất cả đều ẩn danh. Mọi liên tưởng chỉ là trùng lặp tình cờ và không chính xác.

Phần cuối cùng trong loạt bài này tóm tắt lại các giả thiết về 4 nhóm nguyên nhân và 4 nhóm giải pháp cho câu hỏi hàn gắn dân tộc ở Việt Nam.

 

Nhóm nguyên nhân thứ nhất: Cách hiểu về hòa giải - hòa hợp (bài 2)

 
 

Tại Việt Nam, "hòa giải" thường được hiểu là "buông súng".

Nhưng trong khoa học, "hòa giải" (reconciliation) rộng hơn rất nhiều. Đó là một loạt các chính sách hậu chiến nhằm: (A) Nói lên sự thật; (B) Thực thi công lý; (C) Đền bù thiệt hại; và (D) Chia sẻ quyền lực để xây dựng lại cộng đồng.

Ở Việt Nam, diễn ngôn "hòa hợp" dường như bỏ qua khâu "hòa giải". Việc kêu gọi "khép lại quá khứ, hướng tới tương lai" có thể bị hiểu là thực dụng và ích kỷ, chưa "xóa bỏ hận thù" (hòa giải) đã kêu gọi "chung sống hòa thuận" (hòa hợp).

Điều này bắt nguồn từ việc hòa giải vốn chỉ là giải pháp tình thế tại Hiệp định Paris khi Mặt trận Giải phóng miền Nam cam kết thành lập chính phủ ba thành phần (chính quyền Sài Gòn, phe cộng sản, phe trung lập). Để liên kết được các lực lượng đối đầu này thì khái niệm "hòa giải-hòa hợp" bắt buộc phải ra đời.

Nhan đề bài viết này là lời Giáo sư Cao Huy Thuần. Ông cho rằng phe trung lập chính là một "chiến sĩ vô danh của hòa giải Việt Nam". Dù luôn bị gạt ra ngoài bức tranh chỉ có "ta" và "địch," đóng góp của họ, nhất là Tổng thống Dương Văn Minh, "xứng đáng được lịch sử thắp cho một nén nhang".

Đáng tiếc là sau ngày 30/4/1975, "lời hứa về một chính phủ đa nguyên không còn giá trị." Vì không có đa nguyên nên phe chiến thắng toàn quyền quyết định trong việc: (A) Nói lên sự thật nào? (B) Thực thi công lý cho ai? (C) Đền bù thiệt hại cho ai? và (D) Chia sẻ quyền lực ở mức độ nào?

Như vậy, quá trình hàn gắn dân tộc bị ảnh hưởng bởi:

  • "Hòa giải" bị hiểu đơn giản thành "buông súng," bỏ qua các thành tố quan trọng;
  • Thiếu các chính sách hòa giải đúng với bản chất khoa học của quá trình này;
  • Thiếu sự đa nguyên trong các quyết định về chính sách hòa giải.
Bức tượng Nỗi lòng của mẹ của điêu khắc Trần Thanh Phong. Giáo sư Cao Huy Thuần cho rằng "thành phần thứ ba không có cha. Họ chỉ có mẹ. Đó là Mẹ Việt Nam."
Bức tượng Nỗi lòng của mẹ của điêu khắc Trần Thanh Phong. Giáo sư Cao Huy Thuần cho rằng "thành phần thứ ba không có cha. Họ chỉ có mẹ. Đó là Mẹ Việt Nam."

Nhóm nguyên nhân thứ hai: Chính sách hậu chiến (bài 2, bài 9)

 
 

1. Cải cách ruộng đất: Cứ 10 người thì có 7 người bị quy oan. "Tòa án nông dân hành hình man rợ hàng ngàn người, gồm cả cán bộ Đảng và ân nhân cách mạng" dựa vào "sự căm thù người giàu" chứ "không dựa vào pháp luật."

2. Trại cải tạo: Khoảng 100.000 quân nhân và trí thức chế độ cũ "bị giam giữ," "lao động khổ sai" mà "không có xét xử và tuyên án." Nhiều người "chết đói," "tự sát," hoặc "bị xử tử."

3. Chủ nghĩa lý lịch: Người chế độ cũ bị "chặn đường tìm việc và con cái họ không được vào đại học."

4. Đánh tư sản: Bốn chiến dịch X1, X2, X3 và Z-30 nhằm vào thương nhân người Hoa, tư sản và tiểu thương. "Nhà cửa, cơ sở sản xuất của họ bị tịch thu, thậm chí cả tư trang như kính đeo mắt." Đợt đổi tiền ngay sau đó khiến tài sản của họ hoàn toàn mất giá trị. Nhà nước cũng quản lý nhà cửa của các sĩ quan chế độ cũ. Nhà của "mật thám," "chiêu hồi" bị tịch thu. "Nhiều người bị vu oan là mật thám đã mất sạch gia sản và phải vào tù."

5. Kinh tế mới: Một phần trong gần 3 triệu người đi kinh tế mới là nạn nhân của đánh tư sản. Họ bị "cưỡng bức," "gây áp lực," hoặc "không còn lựa chọn nào khác vì đã mất hết." "Hàng trăm ngàn trẻ em thất học." "Quá đói khổ, nhiều người bỏ trốn về Sài Gòn để ăn xin."

6. Thuyền nhân: Những điều trên thúc đẩy hàng triệu người tìm cách vượt biển. Khoảng 200.000 đến 400.000 thuyền nhân bỏ mạng.

Vì gốc rễ của hận thù đến từ chính sách hậu chiến (sau 1954 và 1975), "nhà cầm quyền" trở thành yếu tố quan trọng nhất trong quá trình hòa giải với những "người bị oan khiên".

Giữa người dân với nhau, tuy hiểu lầm vẫn còn nặng nề, mỗi gia đình và từng cá nhân đã tự hàn gắn theo cách riêng của họ. "Thành tựu lớn nhất về hòa giải chính là nỗ lực nội tại của người Việt, bởi hầu như mọi gia đình ở miền Nam đều có người thân ở hai bên chiến tuyến."

"Suốt 50 năm qua, họ đã dùng tình yêu thương máu mủ để lặng lẽ vực dậy cả dân tộc này."

Trong bài Gặp những nhân chứng của Cuộc xé rào lịch sử trên Tiền Phong ngày 19/6/2006, cố Đại tướng Mai Chí Thọ (trái, hàng ngồi) đã ghi nhận sự sai lầm của đánh tư sản, dẫn đến "đời sống người dân ngày càng lâm vào cảnh cùng cực, có nhiều người không chịu đựng nổi phải vượt biên."

Trong bài Gặp những nhân chứng của Cuộc xé rào lịch sử trên Tiền Phong ngày 19/6/2006, cố Đại tướng Mai Chí Thọ (trái, hàng ngồi) đã ghi nhận sự sai lầm của đánh tư sản, dẫn đến "đời sống người dân ngày càng lâm vào cảnh cùng cực, có nhiều người không chịu đựng nổi phải vượt biên."

 
 

Nhóm nguyên nhân thứ ba: Ý thức hệ chính trị

Luồng ý kiến có đồng thuận cao, đặc biệt từ người có chuyên môn cho rằng: "ý thức hệ" là nguyên nhân gốc rễ ảnh hưởng đến quá trình hàn gắn dân tộc.

1. Lý tưởng chính trị 

Cuộc chiến ở Việt Nam không dễ phân biệt đúng sai. Vấn đề ở Campuchia và Đức (Quốc xã) là "diệt chủng," ở Nam Phi là "phân biệt chủng tộc," ở Mỹ là "chiếm hữu nô lệ". Vì thiện ác dễ phân biệt nên hòa giải ở đó cũng nhanh hơn.

Ở Việt Nam, cả hai phe đều chiến đấu vì lý tưởng chính trị, tương tự như Nam-Bắc Hàn và Đông-Tây Đức sau này. Hòa giải khó hơn vì xung đột có gốc rễ chính trị chứ không phải chuẩn mực đạo đức.

2. Cuộc chiến ủy nhiệm 

Nội chiến là xung đột nội bộ, hai phe tự giải quyết với nhau.

Tuy nhiên ở Việt Nam, "đằng sau Sài Gòn là hơn 500.000 lính Mỹ và đằng sau Hà Nội là hơn 300.000 quân Trung Quốc". Sau thống nhất, các chính sách hậu chiến tiếp tục chịu ảnh hưởng của Trung - Xô. Hàn gắn khó khăn vì "gốc rễ của bất hòa chủ yếu đến từ bên ngoài".

3. Đấu tranh giai cấp 

Học thuyết Marx khẳng định chủ nghĩa cộng sản là "chế độ cuối cùng, xã hội ưu việt nhất của loài người." Trong xã hội đó, chuyên chính vô sản (sự độc tài của giai cấp vô sản - dictatorship of the proletariat) xác định công-nông là giai cấp thống trị, trấn áp các giai cấp khác bằng bạo lực cách mạng. Đường lối này "không ai được chống lại. Ai chống lại thì bị bắt" - (Lê Duẩn).

Đấu tranh giai cấp trở thành nguyên nhân của những hận thù mới. "Khi kẻ thù bên ngoài (Pháp, Mỹ) không còn thì kẻ thù bên trong xuất hiện: địa chủ, tư sản, trí thức cũ, ngụy quân, ngụy quyền, con cái của ngụy quân-ngụy quyền, thuyền nhân," "tiểu thương, doanh nhân," những người có "tư tưởng xét lại," "tự chuyển hóa," "diễn biến hòa bình"…

4. Cực đoan và hận thù trên mạng

Đấu tranh giai cấp đã biến thành hận thù trên mạng. Sự cực đoan chủ yếu đến từ giới trẻ, những người "chỉ nghe đọc về cuộc chiến," nhưng lại trở nên "hung hãn," "tấn công cả những lão thành cách mạng trực tiếp đổ máu". Sự kiện khiến quốc tế chú ý nhất là việc hàng ngàn người trẻ sỉ nhục lá cờ vàng trưng bày trong bảo tàng lịch sử quân đội.

5. Cộng đồng hải ngoại 

Cuộc chiến ý thức hệ đã tạo nên bản sắc "chống cộng" cho chính quyền Sài Gòn. Danh tính này đi theo những người tị nạn tới quê hương mới.

Với Nghị quyết 36, chính quyền thay đổi cách nhìn người tị nạn, từ "Việt gian bán nước" thành "Việt Kiều yêu nước." Tuy nhiên, nghị quyết đang bị nghi ngờ là "cánh tay nối dài của cộng sản nhằm phá hoại cộng đồng hải ngoại".

Hàn gắn khó khăn vì giữa hai bên thiếu vắng nền tảng của sự hiểu biết và cái tâm chân thànhHận thù trên mạng khiến cái nhìn về phía bên kia trở nên cực đoan. Sự xa cách địa lý cũng là yếu tố khiến vết thương của hàng triệu kiều bào khó lành hơn.

6. Chính sách kinh tế 

Trong một xã hội tiểu nông hầu như ai cũng nghèo, giàu có thường "bị nghi ngờ là bất lương".

"Cách mạng vô sản thành công" vì đánh trúng vào tâm lý ghét cái ác tức là ghét người giàu. "Để thoát khổ thì phải đấu tranh giai cấp." Chính vì thế, "khối đại đoàn kết dân tộc" sau đó coi "người giàu" và "trí thức" là kẻ thù.

Các chính sách kinh tế dựa trên ý thức hệ (cải cách ruộng đất, cải tạo công thương, đánh tư sản, kinh tế mới, xóa bỏ kinh tế tư nhân) đã tạo thêm hận thù, lấy đi mạng sống của nhiều người vô tội.

7. Cuộc chiến ngoại giao

Cuối cùng, Việt Nam vẫn tiếp tục phải linh hoạt kiểu "cây tre" trong cuộc chiến ý thức hệ dưới hình hài kinh tế. "Người Việt tiếp tục bị chia cắt giữa phe bảo thủ thân Trung Quốc và phe bứt phá nghiêng về Mỹ."

 

Một số người cho rằng hận thù trên mạng là âm mưu chia rẽ người Việt với sự can thiệp của của tình báo Hoa Nam.

Lý lịch thuyền nhân của nhà khoa học Amanda Nguyen - người phụ nữ gốc Việt đầu tiên bay vào vũ trụ - đã khiến cô bị nhiều người lăng nhục. Sự "yêu nước cực đoan" không nhìn thấy cơ hội hợp tác mà chỉ nhìn thấy thù hận.

Lý lịch thuyền nhân của nhà khoa học Amanda Nguyen - người phụ nữ gốc Việt đầu tiên bay vào vũ trụ - đã khiến cô bị nhiều người lăng nhục. Sự "yêu nước cực đoan" không nhìn thấy cơ hội hợp tác mà chỉ nhìn thấy thù hận.

Nhóm nguyên nhân thứ tư: Lịch sử, văn hóa và tâm thức

1. Lịch sử vùng miền 

Sau hàng nghìn năm di cư và nội chiến, căn cước Việt thực ra rất mới và không mạnh mẽ bằng căn cước vùng miền. Chính vì thế, "khoan dung" không phải là một căn tính cố định mà là một công cụ sinh tồn, thay đổi tùy bối cảnh lịch sử, tùy vùng đất di cư, tùy kẻ thù. Thậm chí vì quá yêu thương nhau mà khi bị "phản bội," ta khó có thể tha thứ cho người cùng dòng máu.

Sự linh hoạt này khiến khoan dung khó trở thành giá trị chung để người Việt hàn gắn.

2. Lịch sử phong kiến 

Việt Nam không có giai đoạn tư bản để thẩm thấu những khái niệm mới như "Tổ quốc," "dân chủ" và "nội chiến". Thời phong kiến "chỉ có phản nghịch và dẹp loạn".

Chính vì vậy, không bên nào chấp nhận từ "nội chiến". Miền Nam bị coi là tay sai của Mỹ. Miền Bắc bị coi tay sai của Trung Quốc, Liên Xô. Cả hai đều dùng "truyền thống chống ngoại xâm, trung hiếu với tổ tiên để có chính danh".

"Hòa giải-hòa hợp" cũng là khái niệm mới. Triều đình không "hòa giải" mà "trừng phạt". Chính vì thế, binh lính cộng hòa bị giam giữ vì lý do đạo đức (phản nghịch) chứ không phải lý do chính trị (chống cộng). Tương tự, "tru di tam tộc" cũng là nền tảng của chủ nghĩa lý lịch.

Chúng ta khó hàn gắn vì không có tư duy và ngôn ngữ để gọi tên sự thật, để hiểu khái niệm "nội chiến," để công nhận rằng "người Việt đang giết người Việt".

Bên cạnh đó, tàn dư phong kiến khiến sau khi lật đổ vua chúa, người dân vẫn mang tâm thế "chờ đợi một đấng minh quân". Hòa giải khó vì quá trình này không có chính sách xuyên suốt mà phụ thuộc quá nhiều vào "ý chí cá nhân của một nhóm lãnh đạo chóp bu".

3. Lịch sử đói nghèo

Thứ nhất, nghèo đói khiến "người Việt có mối thù sâu sắc với kẻ giàu có". "Hòa giải khó vì đó là cái thù đã tích lũy từ ngàn đời".

 

Thứ hai, dân trí thấp khiến bạo lực cách mạng trở nên man rợ. Hòa giải khó vì "khi chiến tranh kết thúc, sự ngu dốt vẫn tiếp tục nổ súng".

Cuối cùng, giai cấp lãnh đạo các cuộc cách mạng vô sản "hầu như chưa bao giờ phải sống đời vô sản". Họ đại diện cho người nghèo nhưng bản thân họ là trí thức và tiểu tư sản.

"Nghịch lý giai cấp" này tạo ra mâu thuẫn khi đất nước đã ổn định: "Làm sao để thuyết phục dân nghèo là tuy tôi có đặc quyền, thành đạt, học cao, nhưng tôi vẫn đại diện cho tầng lớp cần lao?" "Làm sao để họ không nhìn tôi như một tầng lớp cai trị mới?"

Tuy nhiên, trong bất kỳ xã hội nào, "người trí thức" của các giai cấp "sẽ là người lãnh đạo". Quá trình hòa giải khó khăn vì nó cần sự chuyển đổi của cả một hệ thống lý luận để không bị mâu thuẫn với thực tế. Thậm chí Đảng Cộng sản "cần quay lại cái tên cũ là Đảng Lao động" để danh chính ngôn thuận.

4. Đứt gãy văn hóa 

Do những chính sách hậu chiến sai lầm, nền tảng văn hóa bị rạn nứt. Người Việt mất đi chỗ dựa cho tinh thần hòa giải.

Thứ nhất, nền tảng tôn giáo và đạo đức bị bật gốc. Những giá trị cơ bản để hàn gắn như tâm linh, nghĩa tử là nghĩa tận, tâm thiện lành, khả năng tha thứ, tinh thần phụng sự, lòng tin vào con người, sự chính trực, sự dấn thân, khả năng thấu cảm… bị đổ vỡ.

Thứ hai, "hận thù dựa trên ý thức hệ" đã chuyển thành "kỳ thị văn hóa," phân biệt vùng miền theo hướng "Nam kỳ thị Bắc". Đây có thể là một dạng "tâm lý phản vệ," là "đòn trả đũa" cho một thời văn hóa miền Nam bị coi là "rác rưởi, đồi trụy, nô dịch". Một cách gián tiếp, có lẽ người miền Nam muốn nói rằng "các anh thắng về quân sự, nhưng thua về văn hóa".

Phân biệt vùng miền ngày càng trầm trọng bởi hận thù trên mạng trong giới trẻ, phá hủy cấu trúc cộng đồng trong nhiều thế hệ tiếp nối.

Thứ ba, đứt gãy văn hóa vô cùng sâu rộng trong cộng đồng hải ngoại. Thế hệ thuyền nhân yêu quê hương tha thiết. Tuy nhiên, họ mất kết nối với Việt Nam bởi muốn đoạn tuyệt với chính quyền cộng sản.

Họ cũng mất kết nối với con cái vì phải tối mặt lo kiếm ăn.Thế hệ sau không nói tiếng Việt, xa rời danh tính Việt, hoặc vấp phải sự hận thù cờ vàng của người trong nước. Hàn gắn sẽ khó khăn hơn khi nguồn lực dân tộc (kiều hối, chất xám, sức mạnh mềm, lobby chính trị…) bị đứt gãy đột ngột sau khi thế hệ thuyền nhân trôi qua.

5. Nỗi đau tâm thức 

Người Việt đã phải chịu quá nhiều mất mát. Hòa giải khó khăn bởi nỗi đau quá lớn.

Với bên "thua trận," mất mát là bằng chứng để khẳng định hận thù là chính đáng. Nhưng sống với hận thù cũng khiến "người ta kiệt sức".

Với bên "thắng cuộc," mất mát là để khẳng định cái giá phải trả là xứng đáng. Hòa giải đồng nghĩa với việc mất mát đó bỗng thành vô nghĩa.

Bên cạnh đó, "tính sử thi và tráng ca" của chính sử cũng khiến những người chiến thắng phải sống như anh hùng. Họ ít có cơ hội được "hoang mang," "tự vấn," "nhận ra mình sai đúng ở đâu," và được "chữa lành".

Nỗi đau còn có tính tiếp diễn. Với những người phản tỉnh, họ dằn vặt vì chính mình "có lỗi trong những đau thương của dân tộc". Với những người hy sinh cho lý tưởng, họ thất vọng vì sau bao xương máu, "lý thuyết màu hồng" vẫn khác với "thực tế bất công cho người nghèo". Với những trí thức, họ trăn trở khi "chỉ có thể cống hiến nếu vào Đảng". Với những kẻ liêm chính, họ đau xót nhận ra tham nhũng không chỉ là cá nhân mà "có tính hệ thống".

Đáng lo ngại hơn, do thiếu vắng một không gian cho đa nguyên sự thật, đa chiều ký ức, những chấn thương xuyên thế hệ tiếp tục diễn ra lặng lẽ trong từng gia đình. Các nghiên cứu về di truyền học biểu sinh cảnh báo rằng sự phá hủy này sẽ được kế thừa ba bốn đời kế tiếp.

Điều đó có nghĩa là những thế hệ không trực tiếp bắn giết, bị tù cải tạo, bị chạy tị nạn, bị đói, bị mất mát, bị phản bội, bị bội tín, bị trả thù… vẫn có thể bị sang chấn tâm lý, lo âu trầm cảm, rối loạn tiêu hóa, tăng cân, huyết áp… Sống trong một môi trường hận thù, thiếu niềm tin và hợp tác, những căn bệnh ấy không chỉ dừng lại ở ba bốn thế hệ mà tiếp tục di truyền sâu rộng hơn.

Nếu ta không thực sự hàn gắn, chặn lại cỗ xe di truyền ấy, hậu quả sẽ là vòng xoáy tụt hậu sinh học của cả dân tộc.

 

Hòa giải không thể đi vòng qua sự thật. "Ta không thể khép lại quá khứ mà không ghi nhận quá khứ ấy." Ở Việt Nam, quyền được tiếp cận sự thật đặc biệt quan trọng với "bên thắng cuộc".

Trên thế giới, Ủy ban Sự thật và Hòa giải được coi là yếu tố quyết định thành công của quá trình hàn gắn. Điều này có lẽ khó ở Việt Nam. Tuy nhiên, giải pháp đó không phải là duy nhất.

1. Ghi nhận từ chính quyền 

Vì gốc rễ của hận thù đến từ chính sách hậu chiến, chính quyền trở thành yếu tố quan trọng nhất trong quá trình hàn gắn. Chính quyền có thể cân nhắc:

♦ Ghi nhận tính chính danh của VNCH: Điều này đã được chính thức hóa từ lâu trong các nghiên cứu trên tạp chí Lý luận chính trị. Tinh thần yêu nước của Ngô Đình Diệm và các giá trị của Đệ nhất Cộng hòa cũng được ghi nhận trong một số sách của NXB Sự Thật. Tuy nhiên, nó cần được biến thành diễn ngôn đại chúng.

♦ Ghi nhận gốc rễ của hận thù: "Cải cách ruộng đất" đã phần nào được minh bạch thông tin và nhận sai. Tuy nhiên, "tù cải tạo," "đánh tư sản," "chủ nghĩa lý lịch" và "thảm họa thuyền nhân" cần được xuất hiện trong chính sử.

♦ Ghi nhận các chính sách sai lầm: Rất nhiều lãnh đạo đã công khai nhận sai trên báo chính thống. Trong một xã hội tập quyền như Việt Nam, "chỉ cần một câu của lãnh đạo là đủ tạo bước ngoặt, tiết kiệm hàng thập kỷ nỗ lực của dân đen". Tuy nhiên, những hành động bên lề đó cần biến thành sự ghi nhận chính thức.

Cố thủ tướng Võ Văn Kiệt đã nhiều lần công khai ghi nhận những chính sách và cách thực thi sai lầm của Đảng Cộng Sản. 

Cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã nhiều lần công khai ghi nhận những chính sách và cách thực thi sai lầm của Đảng Cộng sản

2. Lịch sử phải là một khoa học 

♦ Bỏ xưng hô "ta-địch": Đây là cách đơn giản nhất để lịch sử "có vẻ" khoa học hơn. Ngôn ngữ sách giáo khoa (SGK) hiện nay vẫn là lời kể của "ta" - người chiến thắng.

♦ Khách quan: SGK không nên là "một cuốn sử thi dát đầy huân chương," ta nhất định thắng, địch nhất định thua. Các sự kiện không phải để học thuộc lòng mà để nghiên cứu theo tư duy "các bên được gì, mất gì".

♦ Đa chiều sự kiện: Lịch sử với tư cách là một khoa học sẽ "đi tìm những điều ta chưa biết," những sự kiện không có trong SGK, những tư liệu bị thất lạc, những tiếng nói vắng mặt trên truyền thông.

Điều này có thể bắt đầu bằng việc từng bước bạch hóa những giai đoạn then chốt như: cải cách ruộng đất, đánh tư sản, nạn kiều, tù cải tạo, chủ nghĩa lý lịch, thuyền nhân, Mậu Thân, cuộc chiến với Trung Quốc, sự can thiệp tại Campuchia…

Vượt ra ngoài chính sử, nghệ thuật đang đi đầu trong việc ghi nhận và phục hưng văn hóa miền Nam. Hát nhạc vàng khi xưa có thể bị đi tù, nhưng bây giờ trở thành trào lưu bolero. Nhiều sách của tác giả miền Nam được tái bản.

Tuy nhiên, ở các lĩnh vực khác, "đa chiều sự kiện" nghĩa là các tác giả miền Nam và hải ngoại phải có tên trong chương trình giảng dạy kinh tế, văn học, báo chí, kiến trúc, pháp luật, sư phạm…vv.

♦ Đa nguyên sự thật: Điều này đòi hỏi sự chuyển đổi tư duy mạnh mẽ để chấp nhận rằng "sự thật bất toàn". Như một con voi mà mỗi ông thầy bói chỉ có thể sờ được một phần, "không ai nhìn thấy hết sự thật. Kể cả những nhà chép sử."

Cách tiếp cận đơn giản nhất với đa nguyên sự thật là qua trải nghiệm cá nhân từ nhiều phía. Chúng ta "tôn trọng ký ức của cô bé bị bắn gãy chân khi đang chạy loạn," và cô gọi đó là "giặc Mỹ". Chúng ta tôn trọng ký ức của một cô bé khác "phải chứng kiến mẹ mình bị cưỡng hiếp," và cô gọi đó là cuộc vượt biển "trốn chạy cộng sản".

Chúng ta không cần một lịch sử "đúng hết," mà là những "phiên bản lịch sử cá nhân" "phản chiếu thành thật một phần quá khứ".

♦ Sự thật không phán xét: Tuy nhiên, sự thật sẽ phản tác dụng nếu nó không xuất phát từ cái tâm yêu thương và công bằng. Để làm được điều đó, ta phải: (A) luôn tiếp cận đồng thời với mất mát từ cả hai bên, không nói nửa chừng, che giấu, phủ nhận nỗi đau của kẻ khác; (B) nói ra không để buộc tội hay trả thù; (C) không đổ lỗi cho cả một cộng đồng.

50 năm sau bức ảnh nổi tiếng "Hành quyết trên đường phố Sài Gòn," hòa giải bắt đầu khi con cái của những người đã chết được phép kể câu chuyện của mình trong bộ phim tài liệu Đất lành chim đậu.

Hơn 50 năm sau bức ảnh nổi tiếng Hành quyết trên đường phố Sài Gòn, hòa giải bắt đầu khi con cái của những người đã chết được phép kể câu chuyện của mình trong bộ phim tài liệu Đất lành chim đậu

3. Trách nhiệm cá nhân với sự thật 

 Lưu giữ ký ức: Mỗi người già là một viện bảo tàng. Ta có thể xin phép ghi âm, biến ký ức của họ thành bất tử trong dòng chảy lịch sử bằng cách lưu giữ trên blog cá nhân, mạng xã hội, hoặc một nơi trang trọng trong không gian gia đình.

♦ Vượt ra khỏi giới hạn dễ chịu: Không ai muốn bị lừa dối, nhưng cũng không ai muốn phủ nhận ký ức của chính mình và người thân. Tuy nhiên, hàn gắn dân tộc cũng là một phần trách nhiệm của người tử tế. Đó là việc ta đủ dũng cảm để chấp nhận rằng "tôi có thể sai" và mở lòng với một câu trả lời khác.

♦ Để lại dấu ấn cá nhân: Mỗi người dân đều có thể đóng góp. Đó có thể là một biên tập viên dùng từ "thống nhất" thay vì "giải phóng". Một người mẹ xem ti vi và học sử cùng con để giúp con phản biện. Một người cha tìm đọc các tác giả của phía bên kia hoặc ngoài luồng chính sử. Một giáo viên không thể sửa lại SGK nhưng đưa ra một bài tập gợi trí tò mò. Một chính khách chọn nói thật khi về hưu. Một phóng viên lặn lội đi tìm quan điểm không chiếm sóng truyền thông. Một độc giả chia sẻ câu chuyện cá nhân thay vì lao vào chửi bới…

Nhóm giải pháp thứ hai: Công lý

1. Minh oan

♦ Công lý và kinh tế: Sức mạnh thực dụng của kinh tế khiến người ta dễ nhận sai và sửa sai. Kim Ngọc là "câu chuyện hoàn hảo của công lý". Khi trả đất cho dân tự cứu đói, ông bị coi là "chệch hướng XHCN, phải kiểm điểm rất nặng nề. Tuy nhiên, khi khoán 10 thành công, ông được minh oan." Cộng đồng hải ngoại cũng vậy, "họ được minh oan vì điều này có lợi ích kinh tế".

♦ Các nhóm nạn nhân khác: Tuy nhiên, ngoài phạm vi kinh tế, hàng trăm nghìn nạn nhân khác cũng cần được minh oan.

Đó là những tướng tá miền Nam đã tuẫn tiết khi Sài Gòn thất thủ nhưng bị chính sử gọi là "kẻ đánh thuê hèn nhát".

Đó là những binh lính chế độ cũ bị coi như "cầm thú" nên phải cho đi "cải tạo để trở lại làm người".

Đó là những trí thức trong Vụ án Xét lại, Nhân Văn Giai Phẩm và phong trào đa nguyên. Cả những tượng đài như Văn Cao, Trần Đức Thảo, Nguyễn Hữu Đang, Phùng Quán… cũng bị "kiểm điểm, sỉ nhục, giam cầm hoặc lao động cải tạo". Nhóm này có thể bao gồm cả những "tù nhân lương tâm" thời hiện đại.

Bài thơ Lời Mẹ dặn của Phùng Quán trở thành tuyên ngôn lương tâm của giới văn nghệ sĩ miền Bắc năm 1957. Ông bị kỷ luật, tù cải tạo, gần 30 năm sau mới được phục hồi danh dự. Bài thơ được tạc trên bia mộ ông.
Bài thơ Lời Mẹ dặn của Phùng Quán trở thành tuyên ngôn lương tâm của giới văn nghệ sĩ miền Bắc năm 1957. Ông bị kỷ luật, tù cải tạo, gần 30 năm sau mới được phục hồi danh dự. Bài thơ được tạc trên bia mộ ông.

2. Khôi phục danh dự

♦ Chính thức: "Được thần công lý phù trợ, Kim Ngọc được đặt tên trường, tên đường, dựng tượng, tặng huy chương, lên phim, thậm chí xin lỗi." "Tất cả những gì có thể làm để khôi phục danh dự cho ông thì đều đã được làm."

♦ Âm thầm: Một số nạn nhân khác được phục hồi danh dự một cách âm thầm. Vài tác phẩm của họ được lưu hành lại, một số người được trở về Việt Nam. Điều này an ủi họ nhưng không thúc đẩy hiểu biết đại chúng và hàn gắn dân tộc.

♦ Nửa vời: Thuyền nhân là trường hợp đặc biệt. Họ từng bị coi là "phản quốc," "lười biếng," "đĩ điếm," "trốn đi vì quen ăn bám Mỹ," "không chịu lao động kiếm sống". Với Nghị quyết 36, họ trở thành "khúc ruột ngàn dặm" và "Việt kiều yêu nước".

Tuy nhiên, danh tính mới không đi kèm với những bước căn bản để thiết lập niềm tin như: nói lên sự thật, ghi nhận nỗi đau, khôi phục danh dự, xin lỗi và tha thứ… Quá khứ chưa được "lộ ra" đã đòi "khép lại".

Chính vì vậy, Nghị quyết 36 bị nghi ngờ là để "phá hoại cộng đồng hải ngoại," để "có tính chính danh khi đòi lại Hoàng Sa," và để "thúc đẩy nguồn kiều hối".

3. Công lý cho người đã khuất

♦ Thắp hương cho người ngã xuống: Không gì hàn gắn người Việt hiệu quả hơn "nghĩa tử là nghĩa tận". "Chỉ cần lãnh đạo cấp cao đến thắp một nén nhang trong nghĩa trang Biên Hòa thôi là đã khiến một nửa những người ghét chính quyền quay xe rồi."

♦ Tìm hài cốt: Ngoài lính Mỹ và bộ đội, chính quyền có thể mở rộng tìm hài cốt binh lính VNCH, đặc biệt những người đã chết trong trại cải tạo.

♦ Mồ yên mả đẹp: Dù nghĩa trang Biên Hòa đã cho phép người dân thăm viếng, tu sửa, những vẫn còn quá nhiều khó khăn. Cấp bách nhất là việc đào rãnh thoát nước để mộ khỏi sụt lún và chặt cây để rễ không đâm xuyên qua hài cốt.

Rất nhiều nghĩa trang khác cũng đang hoang phế, bị ủi đi làm xây dựng. Nhiều tu sĩ và dân thường đã tự nguyện cải táng và chăm sóc những mộ phần này. Nếu đó trở thành chính sách của nhà nước thì sẽ có sức hàn gắn lay chuyển tâm can.

Ngoài ra, chính quyền từng khoét sâu thêm hận thù khi yêu cầu Malaysia và Indonesia phá bỏ hai tấm bia tưởng niệm thuyền nhân trên khu vực trại tị nạn khi xưa. Việc khôi phục lại hai tấm bia sẽ tạo bước ngoặt về niềm tin trong cộng đồng hải ngoại.

♦ Nghĩa sĩ Hoàng Sa: Nếu "nghĩa tử là nghĩa tận" có thể hàn gắn nhanh chóng và hiệu quả thì sức mạnh đó sẽ nhân lên gấp bội với "lòng yêu nước".

Để phát huy "sức mạnh tổng lực" đó, chính quyền có thể chung tay với những chương trình xuất phát từ quần chúng như Nhịp Cầu Hoàng Sa - giúp đỡ gia đình 74 người con đất Việt đã hy sinh trong màu áo VNCH.

Năm 2014, ông Đặng Ngọc Tùng, lúc đó là chủ tịch Tổng liên đoàn Lao động, kêu gọi quyên góp tiền trong dân để xây dựng hai tượng đài, một cho liệt sĩ Gạc Ma, một cho nghĩa sĩ Hoàng Sa.

Khu Gạc Ma xây xong sau một năm. Khu Hoàng Sa sau khi đặt viên đá khởi công thì bị bỏ hoang suốt gần 10 năm. Ông Tùng phải đăng trên facebook cá nhân: "Tôi xin tạ tội."

Viên đá đầu tiên của Khu tượng đài nghĩa sĩ Hoàng Sa ở Lý Sơn cỏ mọc um tùm và có dấu hiệu xuống cấp vào năm 2023
Viên đá đầu tiên của Khu tượng đài nghĩa sĩ Hoàng Sa ở Lý Sơn cỏ mọc um tùm và có dấu hiệu xuống cấp vào năm 2023

Nhóm giải pháp thứ ba: Đền bù

1. Đền bù vật chất

 Đền bù giá trị thực: Trong một thế giới hoàn hảo, "nhà nước phải trả lại những gì đã lấy đi của địa chủ, tư sản, binh lính, viên chức chế độ cũ và những thương nhân bứt ra làm kinh tế khi điều này vẫn bị coi là phạm pháp".

Tuy nhiên, "giá trị tài sản này quá lớn. Quá nhiều nạn nhân đã chết. Nhà cửa đã bị sung công hoặc chia nhỏ cho cán bộ bên thắng cuộc vào ở."

"Giải pháp này bất khả thi. Ta phải chấp nhận rằng đó sẽ mãi mãi là cội nguồn của niềm oán hận."

♦ Giải quyết các đơn khiếu nại: Để "oán hận không di truyền đến nhiều đời con cháu về sau," chính quyền cần giải quyết ngay các đơn kêu cứu, đòi lại gia sản tổ tiên. Có gia đình sống trong căn nhà hơn chục mét vuông cạnh căn biệt thự bị mất. Có lão thành cách mạng đã đút lót hàng trăm triệu cho cán bộ địa phương nhưng chết đi vẫn không được về căn nhà tổ. Có gia đình từng bê cả bàn thờ đi đòi nhà.

2. Đền bù tinh thần

Trong một xã hội "trọng tình" và luôn "canh cánh chuyện luân hồi, mồ mả" như Việt Nam, đền bù tinh thần "vừa tiết kiệm lại vừa hiệu quả". Đó cũng chính là nhóm giải pháp "sự thật" và "công lý" đã nêu ở trên.

"Chỉ cần một tấm bia tưởng niệm hàng nghìn người bị giết trong cải cách ruộng đất thôi, con cháu họ sẽ mãi mãi tha thứ cho chính quyền. Họ không cần tiền đâu, họ cần danh dự."

Nhóm giải pháp thứ tư: Bảo hiểm tương lai

Cuối cùng, "làm thế nào để ta không trượt chân vào vết xe đổ? Làm thế nào để tương lai được bảo hiểm khỏi hận thù?"

Các giải pháp trong nhóm này mang tính vĩ mô và đòi hỏi tầm nhìn lớn của người lãnh đạo.

1. Đổi mới hệ thống lý luận 

  • Thay đổi tư duy

"Hàng triệu người Việt đã chịu oan khiên" vì những "chính sách sai lầm dựa vào ý thức hệ". Vì thế, ta cần "thay đổi lập trường chính trị thì mới thực sự xóa bỏ được hận thù".

Trên thực tế, ta đã thay đổi nhiều lần. "Tư sản" và "trí thức" từng là đồng minh (để chống Pháp), sau đó biến thành kẻ địch (vì phải xóa bỏ giai cấp), rồi lại trở thành đồng minh (vì giai cấp bây giờ bình đẳng). Chủ nghĩa Mác-Lê từng thống trị tuyệt đối cho đến khi Liên Xô sụp đổ và tư tưởng Hồ Chí Minh dần dần thế chân. Kinh tế tư nhân từng bị coi là chệch hướng XHCN nhưng giờ là "một động lực quan trọng nhất" trong "kỷ nguyên vươn mình".

  • Cởi trói tư duy

Việc thay đổi hệ thống lý luận sẽ giải phóng tư duy, cho phép những chính sách hàn gắn thực chất được ra đời.

Nó cho phép ta "gọi tên cuộc chiến," chấp nhận yếu tố "nội chiến" bên cạnh yếu tố "chống Mỹ". Điều này giúp xóa bỏ xung đột tư tưởng, dẹp được gốc rễ của hận thù trên mạng, giảm thiểu phân biệt vùng miền, trả lại danh dự cho người chế độ cũ và thuyền nhân, tạo tiền đề đối thoại chân thành với hàng triệu kiều bào. Nó cũng cho phép ngày 30/4 được tái định nghĩa là ngày "thống nhất" thay vì "giải phóng," ngày "chữa lành" thay vì "ăn mừng," ngày "đại xá" thay vì "đại thắng," ngày "tưởng niệm" thay vì "kỷ niệm".

Nó cho phép ta xây dựng chính sách ngoại giao dựa trên "lợi ích dân tộc" thay vì "ý thức hệ". Đặc biệt, "nó đoàn kết người Việt trong vấn đề Biển Đông mà không bị mâu thuẫn với cam kết chính trị". "Những sự kiện hiếm hoi cờ đỏ - cờ vàng sát cánh bên nhau đều liên quan đến Trung Quốc." "Không gì khiến một dân tộc đoàn kết hơn khi có một kẻ thù chung."

Nó cho phép ta cân nhắc mô hình chủ nghĩa dân chủ xã hội (Social Democracy), hướng đến "tư bản có kiểm soát" và "phúc lợi toàn dân" giống như Bắc Âu. Mô hình này "tương đồng với cảm hứng chủ nghĩa Marx" và được nhiều lãnh đạo Việt Nam "thán phục".

Điều này đặc biệt quan trọng vì "tính chính danh của Đảng đang phải dựa vào kinh tế," nhất là khi "diễn ngôn thắng Pháp thắng Mỹ không còn đủ mạnh mẽ để Đảng giải thích cho vị trí lãnh đạo của mình như xưa nữa".

Lễ tưởng niệm 40 Năm Hải chiến Hoàng Sa và biểu tình trước Lãnh sự quán Trung Quốc tại Hamburg, Đức vào ngày 18/1/2014 . Trên bàn thờ những người ngã xuống có cắm cả cờ đỏ lẫn cờ vàng.

Lễ tưởng niệm 40 Năm Hải chiến Hoàng Sa và biểu tình trước Lãnh sự quán Trung Quốc tại Hamburg, Đức vào ngày 18/1/2014 . Trên bàn thờ những người ngã xuống có cắm cả cờ đỏ lẫn cờ vàng.

2. Cách mạng triết lý giáo dục

  • Triết lý Chân-Thiện-Mỹ

Khó có thể tìm ví dụ đau đớn nào cho việc "giáo dục lòng thù hận" bằng hoạt cảnh diễn ra tại một trường mầm non có khẩu hiệu "nơi trao gửi yêu thương". Thoạt tiên, các em bé "mặc đồ rằn ri bắn giết nông dân. Sau đó các bé mặc đồ quân giải phóng ào đến giải cứu. Còn các bé lính 'ngụy' thì bị bắn bể đầu."

Việc các hoạt cảnh chiến tranh trở thành trào lưu không chỉ "đi ngược lại tinh thần hòa giải," mà còn "khiến những rường cột cơ bản nhất của đạo làm người cũng bị hủy hoại".

Tất cả phải bắt đầu từ tầm nhìn giáo dục. Chúng ta không thể bước vào "kỷ nguyên vươn mình" với một thế hệ từ lúc 3 tuổi đã được dạy lịch sử chỉ là một trò chơi trận giả, đồng bào chính là kẻ thù và chém giết là một hoạt động ngoại khóa.

  • Yêu nước - thương nòi

Không thể phủ nhận lòng yêu nước là sức mạnh mãnh liệt khiến người Việt đoàn kết bên nhau.

Tuy nhiên, sự cực đoan đang hình thành trong một bộ phận người trẻ. Họ có quan điểm rằng "yêu nước là không được chê bai," "đấu tố những cách yêu nước khác mình," "coi yêu nước như lá bùa để chụp mũ phản động, ba sọc," "đánh đồng yêu nước với yêu Đảng" và "thần thánh hóa các nhân vật lịch sử".

Ai cũng có nhu cầu chính đáng là quyền được tự hào. Nhưng thay vì hãnh diện bởi những gì tự làm ra, họ lại "ngạo nghễ, huênh hoang bằng máu của thế hệ đi trước," "yêu nước theo trend," và "sỉ nhục các quốc gia khác để Việt Nam trở nên lấp lánh". Những bạn trẻ thực dụng thì dùng yêu nước để "đánh bóng thương hiệu cá nhân" và "tiến thân trong sự nghiệp".

Đối lập với sự cực đoan đó là một triết lý giáo dục dựa trên nền tảng "tam dân". Yêu nước không chỉ là mục tiêu "dân tộc độc lập," mà còn là "dân quyền tự do" và "dân sinh hạnh phúc". Cả sáu chữ trong tiêu ngữ Việt Nam đều lấy "dân" làm trọng.

Trong tinh thần nhân văn ấy, "yêu nước" luôn đi liền với "thương nòi". Thiếu "cái tâm bao dung với đồng bào, yêu nước sẽ biến thành chủ nghĩa dân tộc cực đoan," "thành khối ung thư giết chết cơ thể của chính nó". Chính vì thế, giáo dục phải ý thức được sứ mệnh nặng nề trong việc hàn gắn dân tộc.

"Có lần tôi thấy bọn trẻ con xúm vào chửi bới tấm ảnh một ông cựu binh cộng hòa cụt chân đến khóc trước mộ bạn.

Tôi nhớ đến bác Phạm Toàn. Lúc làm bộ SGK Cánh Buồm, bác lúc nào cũng đau đáu về điều này. Bác từng gợi mở cho học sinh 'khi đứng trước mộ một người lính, tôi nghĩ gì?'"

"Những đứa trẻ được giáo dục như thế sẽ khó có thể nhẫn tâm đến mức lên tiếng nhục mạ một thương phế binh đang khóc thương đồng đội."

Rất nhiều người trẻ lấy danh "yêu nước" để phỉ báng tổng thống Pháp và phu nhân khi họ sang thăm Việt Nam. Điều này bất chấp việc Pháp là nước duy nhất trong số những quốc gia gây chiến ở Việt Nam đã nói lời xin lỗi, là nước ủng hộ Việt Nam giữ vị trí trong IMF thay cho chính quyền VNCH.

Rất nhiều người trẻ lấy danh "yêu nước" để phỉ báng tổng thống Pháp và phu nhân khi họ sang thăm Việt Nam. Điều này bất chấp việc Pháp là nước duy nhất trong số những quốc gia gây chiến ở Việt Nam đã nói lời xin lỗi, là nước ủng hộ Việt Nam giữ vị trí trong IMF thay cho chính quyền VNCH.

Lời kết của tác giả

Tôi bắt đầu dự án cá nhân này bởi sự day dứt với người cha đã khuất. Lời kêu cứu của ông khi thấy đám ác quỷ đứng chờ mình khiến tôi nhận ra rằng, chúng ta đang sống trên một "mảnh đất lắm người nhiều ma," chất chồng oán hận.

Ba năm với gần 500 giờ phỏng vấn từ khắp địa cầu, những điều nhân vật chia sẻ chưa chắc đã là chân lý cho đám đông, nhưng chắc chắn là sự thật của chính họ.

Cũng như vị thân sinh của tôi, dường như ai cũng muốn "sám hối," ai cũng hiểu "đời người một thoáng". Nếu sống đã "không thể rực rỡ," mà lại còn chọn "chết đi cùng sự thật," thì quả là "có lỗi với cơ hội được dừng chân ở kiếp nhân sinh".

Mất cha, nhưng còn mẹ.

Mẹ tôi 88 tuổi, lão thành cách mạng với hai cuộc chiến. Năm ngoái, tôi đưa mẹ tới thăm một cựu binh cộng hòa.

Cô Dung gần 80 tuổi, vẫn mặc quần rằn ri. Cô không có ai nương tựa nên cả đời sống cùng một người bạn thuở niên thiếu. Căn nhà chỉ vừa đủ trải hai manh chiếu, nhưng có cả chục người chung sống.

Hôm ấy, mẹ mang hết mấy hộp sữa để dành, trút hết tiền trong ví biếu cô Dung. Mẹ khóc, cô khóc. Mẹ cười, cô cười.

Hai bà cụ ngồi trong quán cóc. Tiếng loa nhà bên vẳng ra một bài hát từng bị cấm của Văn Cao, vì nó quá hiền:

"Từ đây người biết yêu người…

Với khói bay trên sông,...

…một trưa nắng thôi, hôm nay, mênh mông."

  • Tiến sĩ Nguyễn Phương Mai là chuyên gia đào tạo trong lĩnh vực ứng dụng Khoa học Não bộ vào Giao tiếp-Quản trị đa văn hóa và Phát triển năng lực cá nhân. Đây là một phần trong loạt bài viết về nghiên cứu hòa hợp dân tộc của tác giả.
  • Theo BBC