Việt Nam và Hoa Kỳ từ kẻ thù trên chiến trường đã trở thành đối tác thương mại lớn của nhau trên thương trường. Tác giả Zachery Tayler nhìn lại quá trình làm lành đầy trắc trở giữa hai cựu thù.

11/2000, Tổng thống Mỹ Bill Clinton được người dân chào đón tại TP HCM, nơi ngày trước là đô thành Sài Gòn từng chứng kiến cuộc sơ tán trong hoảng loạn của người Mỹ vào tháng 4/1975
Sau khi Chiến tranh Việt Nam kết thúc, quan hệ giữa Hoa Kỳ và Việt Nam bước vào một giai đoạn mới. Cả hai bên đều mong muốn bình thường hóa quan hệ ngoại giao, nhưng lại đưa ra những điều kiện tiên quyết khiến tiến trình này trở nên khó khăn. Việt Nam kỳ vọng Hoa Kỳ sẽ bồi thường 3,25 tỷ đô la để giúp hàn gắn những vết thương chiến tranh.
Lý do là vì sau chiến tranh, Việt Nam rơi vào hoàn cảnh vô cùng khó khăn, với đất nước bị tàn phá nghiêm trọng trên nhiều phương diện. Hàng trăm ngàn cựu quan chức của Việt Nam Cộng hòa bị đưa vào các trại cải tạo. Tình trạng kinh tế càng thêm kiệt quệ do lệnh cấm vận từ phía Mỹ và mô hình kinh tế chỉ huy cứng nhắc. Trong bối cảnh đó, Việt Nam rất cần viện trợ kinh tế và kỳ vọng Hoa Kỳ sẽ đóng vai trò trong việc hỗ trợ phục hồi quốc gia.
Tại Hoa Kỳ, nhiều người muốn quên đi cuộc chiến ở Việt Nam - cuộc chiến đầu tiên mà Mỹ đã thất bại. Tuy vậy, Tổng thống Gerald Ford vẫn kỳ vọng Việt Nam sẽ hợp tác trong các vấn đề nhân đạo, đặc biệt là việc tìm kiếm binh sĩ Mỹ mất tích trong chiến tranh (POW/MIA).
Từ khi chiến tranh kết thúc cho đến tháng 1 năm 1977, Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và Hoa Kỳ chỉ gặp nhau đúng một lần để thảo luận về việc bình thường hóa quan hệ ngoại giao. Cuộc gặp này diễn ra vào tháng 11 năm 1976, sau khi Jimmy Carter đánh bại Gerald Ford trong cuộc bầu cử tổng thống. Tuy nhiên, cuộc họp không đạt kết quả do cả hai bên đều giữ nguyên các điều kiện tiên quyết để cải thiện quan hệ. Hà Nội hy vọng tổng thống kế nhiệm sẽ có lập trường cởi mở hơn đối với yêu cầu viện trợ của mình.
Những cơ hội bị bỏ lỡ: Việt Nam vào cuối thập niên 1970

Thứ trưởng Ngoại giao Việt Nam Phan Hiền (bìa phải) gặp Trợ lý Ngoại trưởng Mỹ phụ trách Đông Á và Thái Bình Dương Richard Holbrooke (trái, áo sáng) trong cuộc họp vào ngày 19/12/1977 tại Sài Gòn nhằm tìm giải pháp thiết lập quan hệ ngoại giao
Tổng thống Jimmy Carter đã không làm điều đó. Tuy nhiên, không giống như Tổng thống Ford, ông Carter ủng hộ việc nhanh chóng bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Việt Nam. Vào tháng 3 năm 1977, ông đã cử một phái đoàn đến Hà Nội, do Leonard Woodcock dẫn đầu, để thảo luận về việc bình thường hóa quan hệ và vấn đề binh sĩ Mỹ mất tích trong chiến tranh. Cuộc họp diễn ra thuận lợi, với việc Woodcock báo cáo rằng giới lãnh đạo Hà Nội hiểu rằng họ sẽ không nhận được khoản 3,25 tỷ đô la để đổi lấy việc bình thường hóa quan hệ. Dù ban đầu có vẻ lạc quan, nhưng không bao lâu sau tình hình cho thấy rõ Việt Nam sẽ không từ bỏ yêu cầu viện trợ của mình.
Trong những năm ngay sau chiến tranh, Việt Nam phải đối mặt với nhiều vấn đề nghiêm trọng. Một trong số đó là cuộc khủng hoảng người tỵ nạn Đông Dương. Việc bị giam giữ cưỡng bức trong các trại cải tạo và tình trạng thiếu thốn cơ hội kinh tế đã khiến hàng trăm ngàn người Việt Nam buộc phải rời bỏ quê hương. Nhiều người liều mình vượt biển trên những con thuyền mong manh, không chịu nổi sóng gió.
Một số may mắn đến được các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á, như Thái Lan hoặc Malaysia, rồi tiếp tục đến Mỹ, Canada hoặc châu Âu. Cuối cùng, các cơ quan của Liên Hợp Quốc, bao gồm Cao ủy Liên Hợp Quốc về Người tỵ nạn, đã hợp tác với Việt Nam để thiết lập Chương trình Ra đi Có trật tự (ODP) vào năm 1979, nhằm hỗ trợ những người Việt muốn rời khỏi đất nước bằng con đường an toàn và hợp pháp. Trong hai thập niên tiếp theo, hơn 1,2 triệu người Việt Nam đã được tái định cư trên toàn thế giới.

Một chiếc thuyền chở người Việt Nam vượt biên vào năm 1978, giữa lúc cuộc khủng hoảng tỵ nạn đang ở đỉnh điểm
Với việc Việt Nam thiếu hụt cơ sở công nghiệp sau chiến tranh và cuộc khủng hoảng người tỵ nạn buộc nhiều người phải rời bỏ đất nước, giới lãnh đạo Hà Nội – đứng đầu là Lê Duẩn – rất cần sự hỗ trợ từ nước ngoài để khôi phục nền kinh tế. Quan hệ giữa Việt Nam với đồng minh lâu năm ở phương Bắc, Trung Quốc, đã trở nên căng thẳng.
Trong những năm sau Chiến tranh Việt Nam, Việt Nam cuối cùng đã ngả về phía Liên Xô trong cuộc xung đột kéo dài giữa Trung Quốc và Liên Xô. Mặc dù Trung Quốc đã cố gắng ngăn Hà Nội tiến quá gần với Moscow, Hà Nội khi ấy rất cần sự hỗ trợ tài chính và quân sự từ Liên Xô. Các chính sách trấn áp người Hoa tại Việt Nam càng khiến tình hình thêm căng thẳng, góp phần làm rạn nứt quan hệ với Bắc Kinh.
Một yếu tố quan trọng khác trong quan hệ Việt-Trung là vấn đề Campuchia. Dù từng ủng hộ Khmer Đỏ trong cuộc cách mạng giành quyền lực tại Campuchia, mối quan hệ giữa hai nước đã nhanh chóng xấu đi. Pol Pot, lãnh đạo của Campuchia Dân chủ, đã ra lệnh cho quân đội nhiều lần tấn công các tỉnh biên giới của Việt Nam, gây thiệt hại lớn cho dân thường.
Trước tình thế kinh tế kiệt quệ và áp lực từ các đối thủ ở cả phía bắc lẫn phía tây nam, Việt Nam buộc phải dựa vào Liên Xô như là nguồn hỗ trợ chính. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn hy vọng có thể nhận được sự hỗ trợ kinh tế từ Hoa Kỳ và thực sự mong muốn bình thường hóa quan hệ với Mỹ. Nhưng cơ hội quý báu ấy đã bị bỏ lỡ ngay trong năm đầu tiên nhiệm kỳ của Tổng thống Carter.
Các cuộc đàm phán giữa Mỹ và Việt Nam về việc bình thường hóa quan hệ ngoại giao đã diễn ra ba lần sau chuyến thăm Hà Nội của phái đoàn do Leonard Woodcock dẫn đầu vào tháng 3 năm 1977. Các vòng đàm phán tiếp theo diễn ra vào các tháng 5, 6 và 12 cùng năm. Trong mỗi cuộc gặp, phái đoàn Việt Nam, thường do Thứ trưởng Ngoại giao Phan Hiền dẫn đầu, đều đề nghị Mỹ cung cấp viện trợ kinh tế để đổi lấy việc bình thường hóa quan hệ. Tuy nhiên, phía Mỹ, do Trợ lý Ngoại trưởng Richard Holbrooke dẫn đầu, đều từ chối đề nghị này.
Bằng chứng cho thấy đã có những bất đồng trong nội bộ Bộ Chính trị Việt Nam. Lãnh đạo Hà Nội dần thất vọng vì tiến trình ngoại giao với Mỹ không đạt được kết quả như mong muốn. Một số thành viên, trong đó có Thủ tướng Phạm Văn Đồng và Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Duy Trinh, cho rằng Việt Nam nên tiến hành bình thường hóa trước, rồi sau đó mới tính đến chuyện nhận viện trợ kinh tế từ Mỹ. Ngược lại, phe cứng rắn hơn, đứng đầu là Tổng Bí thư Lê Duẩn và được Chủ tịch Quốc hội Trường Chinh ủng hộ, khăng khăng rằng viện trợ phải là điều kiện tiên quyết cho bất kỳ bước tiến ngoại giao nào với Washington.

Tổng Bí thư Lê Duẩn được cho là kiên quyết bảo vệ lập trường rằng viện trợ phải là điều kiện tiên quyết cho bất kỳ bước tiến ngoại giao nào với Washington
Dù hai bên chưa thể thống nhất về việc bình thường hóa quan hệ, song vẫn có những bước tiến rõ rệt ở các lĩnh vực khác. Chính phủ Việt Nam, đang đối mặt với nhiều khó khăn và nguồn lực hạn chế, vẫn nỗ lực hợp tác với Mỹ trong việc tìm kiếm và xác minh hài cốt của các binh sĩ Mỹ mất tích trong chiến tranh.
Các cuộc đàm phán về bình thường hóa quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Mỹ đã bị đình chỉ vào năm 1978. Trong suốt năm đó, căng thẳng Chiến tranh Lạnh gia tăng nhanh chóng, khi Mỹ siết chặt quan hệ với Trung Quốc nhằm làm đối trọng với liên minh Xô-Việt. Khi hai bên gặp lại vào tháng 9 năm 1978 để tiếp tục thảo luận, bối cảnh địa chính trị đã thay đổi đáng kể. Cuộc họp tháng 9 trở thành một cơ hội bị bỏ lỡ khác, dù Thứ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch lúc ấy đã chấp nhận từ bỏ yêu cầu viện trợ kinh tế như một điều kiện tiên quyết.
Đáng tiếc là giữa tháng 10, Tổng thống Jimmy Carter ra quyết định đình chỉ tiến trình bình thường hóa với Việt Nam cho đến khi Washington hoàn tất việc thiết lập quan hệ ngoại giao với Bắc Kinh. Phái đoàn Việt Nam đã ở lại New York nhiều tháng trời, nhưng phía Mỹ không còn phản hồi. Một lý do khác khiến chính quyền Carter tạm ngưng đối thoại là cuộc khủng hoảng người tỵ nạn Đông Dương đang diễn ra, vốn đã gây tổn hại nghiêm trọng đến hình ảnh quốc tế của Việt Nam. Cuộc khủng hoảng này lên đến đỉnh điểm vào cuối thập niên 1970, khi bạo lực và xung đột giữa các quốc gia trong khu vực Đông Dương ngày càng leo thang.

Lính Việt Nam tấn công vào Phnom Penh vào năm 1979
Chiếc đinh cuối cùng đóng vào cỗ quan tài của tiến trình bình thường hóa quan hệ Việt–Mỹ chính là cuộc tấn công Campuchia của Việt Nam vào tháng 12 năm 1978. Lê Duẩn đã bắt đầu lên kế hoạch lật đổ Pol Pot từ đầu năm, và kế hoạch ấy được thực hiện vào cuối năm. Mặc dù hầu hết các nước không tiếc nuối khi thấy Pol Pot bị loại bỏ, phần lớn cộng đồng quốc tế vẫn lên án hành động quân sự của Việt Nam là vi phạm chủ quyền lãnh thổ.
Thêm vào đó, nhà nước mới – Cộng hòa Nhân dân Campuchia – được thành lập dưới sự hậu thuẫn mạnh mẽ của Việt Nam, khiến nhiều nước xem đây là một hình thức kiểm soát gián tiếp. Tuy nhiên, từ góc nhìn của Hà Nội, đây là một bước đi chiến lược nhằm tạo ra một quốc gia đệm thân thiện ở phía tây nam, đồng thời loại bỏ một trong những đồng minh nguy hiểm của Trung Quốc trong khu vực. Cuộc can thiệp quân sự này đã khiến tiến trình đàm phán bình thường hóa với Hoa Kỳ đóng băng suốt hơn một thập niên sau đó.
Việc Việt Nam đóng quân lâu dài tại Campuchia đã làm gia tăng đáng kể sự phụ thuộc của Hà Nội vào Liên Xô. Vào thời điểm đó, Liên Xô gần như hoàn toàn trợ cấp cho nền kinh tế Việt Nam cũng như nền kinh tế của Cộng hòa Nhân dân Campuchia. Hành động can thiệp quân sự của Việt Nam khiến nhiều quốc gia Đông Nam Á tức giận, đặc biệt là trong bối cảnh họ kỳ vọng Hà Nội sẽ chấm dứt các hoạt động quân sự sau Chiến tranh Việt Nam.
Nhiều lực lượng dân quân Campuchia đã đứng lên chống lại sự hiện diện của quân đội Việt Nam. Trong số đó có các nhóm phi cộng sản do Hoàng thân Sihanouk và Son Sann lãnh đạo, cũng như Khmer Đỏ – tất cả đều nhận được sự hậu thuẫn từ Thái Lan, Mỹ và đặc biệt là Trung Quốc. Để trả đũa việc Việt Nam đưa quân vào Campuchia, Trung Quốc đã phát động một cuộc tấn công trừng phạt vào miền Bắc Việt Nam vào tháng 2 năm 1979. Dù cuộc chiến chỉ diễn ra trong thời gian ngắn, nhưng đã khiến hàng chục ngàn người thiệt mạng ở cả hai phía. Ngay sau đó, nhiều nhà quan sát đã nhận định rằng cuộc chiến này sẽ trở thành "Chiến tranh Việt Nam của Việt Nam."
Ngoại giao nhân đạo và thời kỳ bao cấp
Sau khi nhậm chức vào đầu năm 1981, Tổng thống Ronald Reagan tiếp tục các chính sách Đông Dương của người tiền nhiệm Jimmy Carter. Ông từ chối tái khởi động các cuộc đàm phán bình thường hóa với Việt Nam cho đến khi Hà Nội rút quân khỏi Campuchia. Tuy các cuộc đàm phán chính thức bị đình trệ, Mỹ và Việt Nam vẫn duy trì liên lạc thường xuyên trong suốt thập niên tiếp theo.
Trái với hình ảnh phổ biến về Reagan như một chiến binh Chiến tranh Lạnh cứng rắn, chính quyền của ông thực tế đã tiến hành nhiều cuộc trao đổi với phía Việt Nam về các vấn đề nhân đạo. Điều này xuất phát từ thực tế rằng một số vấn đề buộc hai nước phải hợp tác. Các vấn đề bao gồm cuộc khủng hoảng người tỵ nạn Đông Dương, việc tái định cư khoảng 23.000 người Mỹ gốc Á (con lai) bị bỏ lại sau chiến tranh, hỗ trợ tái định cư cho những người từng bị giam trong trại cải tạo sau khi họ được trả tự do, và công tác tìm kiếm tù binh chiến tranh cũng như người mất tích trong chiến tranh.
Trong thập niên 1980, Quốc hội Mỹ đã thông qua một số đạo luật cho phép tái định cư một số nhóm người Việt tại Mỹ. Các đạo luật này được thúc đẩy nhờ những nỗ lực vận động mạnh mẽ từ các tổ chức như Hiệp hội Gia đình Tù nhân Chính trị Việt Nam và Boat People SOS - những tổ chức được lãnh đạo bởi chính người Việt tỵ nạn sau năm 1975.

Tổng thống Ronald Reagan đã từ chối tái khởi động các cuộc đàm phán bình thường hóa với Việt Nam cho đến khi Hà Nội rút quân khỏi Campuchia
Vấn đề lớn nhất mà chính quyền Reagan phải đối mặt là công tác tìm kiếm tù binh chiến tranh và người mất tích. Trong những năm 1980, Việt Nam tiếp tục hợp tác với Mỹ để giải quyết vấn đề nhân đạo này, nhưng tiến độ diễn ra rất chậm vì nhiều lý do. Theo thời gian, các thi thể đã phân hủy, và thiên nhiên cũng dần phục hồi, làm mờ dấu vết tại nhiều khu vực.
Mỹ và Việt Nam đã phải dành rất nhiều nỗ lực ngoại giao để giải quyết những khó khăn liên quan. Nhóm vận động hành lang quan trọng nhất tại Mỹ về vấn đề POW/MIA là Liên đoàn Quốc gia các Gia đình Tù binh và Người Mất tích tại Đông Nam Á (thường được gọi tắt là Liên đoàn). Tương tự như các tổ chức khác đã đề cập ở trên, Liên đoàn phản đối việc bình thường hóa quan hệ giữa Mỹ và Việt Nam. Họ cho rằng Mỹ không nên thiết lập quan hệ ngoại giao với Hà Nội cho đến khi Việt Nam cải thiện tình hình nhân quyền, cho phép người dân di cư an toàn, và cung cấp đầy đủ thông tin về tất cả các trường hợp POW/MIA.
Thời kỳ Đổi mới

Thượng nghị sĩ Mỹ John Kerry, Chủ tịch Ủy ban đặc biệt của Thượng viện về các vấn đề tù binh và người Mỹ mất tích (POW/MIA), trao cho Chủ tịch nước Việt Nam Lê Đức Anh (phải) một bức thư từ Tổng thống George H. W. Bush vào ngày 18 tháng 11 năm 1992
Khi thập niên 1980 sắp kết thúc, một số diễn biến đã đưa Mỹ và Việt Nam tiến gần hơn đến việc bình thường hóa quan hệ ngoại giao. Trước hết là chính sách Đổi mới của Việt Nam vào tháng 12 năm 1986. Sau khi Tổng Bí thư lâu năm Lê Duẩn qua đời, Tổng Bí thư kế nhiệm Trường Chinh đã khởi xướng một giai đoạn cải cách kinh tế toàn diện. Việt Nam quyết định mở cửa thu hút đầu tư nước ngoài, chuyển sang nền kinh tế thị trường và có thái độ mềm mỏng hơn với Mỹ. Việt Nam cũng không còn muốn phụ thuộc hoàn toàn vào viện trợ từ Liên Xô.
Liên Xô khi đó hoàn toàn ủng hộ Việt Nam trong định hướng mới này. Lãnh đạo Liên Xô Mikhail Gorbachev đã bắt đầu chiến dịch nhằm chấm dứt Chiến tranh Lạnh với Tổng thống Mỹ Ronald Reagan và tìm cách cải thiện quan hệ với Trung Quốc. Một phần quan trọng trong kế hoạch đó là rút quân Việt Nam khỏi Campuchia.
Diễn biến thứ hai là việc Tổng thống Reagan bổ nhiệm Tướng John Vessey làm đặc phái viên về vấn đề POW/MIA. Tướng Vessey đã thực hiện nhiệm vụ một cách nghiêm túc, và phía Việt Nam đánh giá cao sự tham gia tích cực của ông trong tiến trình ngoại giao giữa hai nước. Những cuộc trao đổi ngoại giao diễn ra trong nhiệm kỳ của Tổng thống Reagan, đặc biệt là vào cuối nhiệm kỳ, đã đặt nền móng vững chắc cho sự cải thiện quan hệ Mỹ - Việt trong những năm sau đó.
Vào năm 1989, trong năm đầu tiên Tổng thống George H.W. Bush giữ chức, Việt Nam cuối cùng đã rút quân khỏi Campuchia. Cuộc chiến kéo dài đã gây tổn thất nặng nề cho Việt Nam và là một trong những lý do chính khiến các nhà lãnh đạo ở Hà Nội quyết định theo đuổi chính sách Đổi mới. Khi quân đội Việt Nam vẫn còn hiện diện tại Campuchia, nền kinh tế trong nước tiếp tục đối mặt với nguy cơ bị cô lập và chịu ảnh hưởng nặng nề từ lệnh cấm vận của Mỹ.
Một diễn biến quan trọng khác góp phần đưa Mỹ và Việt Nam tiến gần hơn đến bình thường hóa quan hệ là sự kết thúc của Chiến tranh Lạnh vào năm 1989/1990. Lãnh đạo Việt Nam khi đó khẳng định rằng sự sụp đổ của các chế độ cộng sản tại châu Âu sẽ không xảy ra ở Việt Nam. Nhưng để Đảng Cộng sản tiếp tục tồn tại, họ buộc phải cải cách và nâng cao đời sống người dân. Và họ đã làm được điều đó. Tuy nhiên, để tiếp cận đầy đủ với nền kinh tế toàn cầu, Việt Nam cần phải khôi phục quan hệ và giao thương với Hoa Kỳ.
Hoa Kỳ và Việt Nam: mối quan hệ mới

Đô đốc Charles Larson (trái), Tổng Tư lệnh châu Á-Thái Bình Dương của Mỹ, nâng ly cùng Thứ trưởng Ngoại giao Việt Nam Lê Mai tại Hà Nội vào ngày 16/1/1994, trong chuyến thăm để thảo luận về vấn đề tù binh và người Mỹ mất tích trong chiến tranh (POW/MIA)
Việc Việt Nam rút quân khỏi Campuchia đã mở ra cánh cửa cho các cuộc đàm phán bình thường hóa quan hệ được nối lại vào năm 1990. Các vòng đàm phán tiếp tục diễn ra trong suốt năm 1991, nhưng đã bị gián đoạn khi Trợ lý Ngoại trưởng Mỹ Richard Solomon trao cho Đại sứ Việt Nam tại Liên Hợp Quốc Trịnh Xuân Lãng một văn kiện mang tên "Lộ trình bình thường hóa". Lộ trình này liệt kê các điều kiện có đi có lại, trong đó hai bên sẽ từng bước đạt được các quyền lợi nhất định sau khi hoàn thành các nghĩa vụ cụ thể, chẳng hạn như hợp tác trong việc tìm kiếm tù binh và người mất tích trong chiến tranh.
Đối với nhiều người, có vẻ như Mỹ và Việt Nam sẽ tiến tới bình thường hóa quan hệ trong nhiệm kỳ của Tổng thống George H.W. Bush. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều tiếng nói phản đối tại Mỹ, cho rằng Việt Nam chưa làm đủ để giải quyết thỏa đáng vấn đề POW/MIA. Sự phản đối cũng đến từ một bộ phận người Việt tại Mỹ, những người tin rằng chính quyền Hà Nội cần cải thiện hồ sơ nhân quyền trước khi được thiết lập quan hệ ngoại giao. Khi Bill Clinton đánh bại Bush trong cuộc bầu cử tổng thống năm 1992, ông tiếp tục theo đuổi tiến trình mà các chính quyền tiền nhiệm đã đặt nền móng.
Mặc dù Tổng thống Clinton nhậm chức từ năm 1993, nhưng phải mất hai năm sau, hai nước mới chính thức bình thường hóa quan hệ. Tại Mỹ, sự phản đối mạnh mẽ đến từ các nhóm vận động hành lang liên quan đến vấn đề tù binh chiến tranh và người mất tích. Một bước ngoặt quan trọng diễn ra vào tháng 2 năm 1994, khi Tổng thống Clinton chính thức dỡ bỏ lệnh cấm vận kinh tế đối với Việt Nam.
Quyết định này đã mang lại cú hích lớn cho nền kinh tế Việt Nam, khi nhiều công ty Mỹ nhanh chóng mở rộng hoạt động kinh doanh tại đây. Cuối cùng, vào ngày 11 tháng 7 năm 1995, Mỹ và Việt Nam tuyên bố bình thường hóa quan hệ ngoại giao. Dù phải mất 20 năm để hai cựu thù thiết lập lại quan hệ, cả hai đã bắt đầu không còn xem nhau là kẻ đối đầu. Nhiều năm đối thoại và hợp tác về các vấn đề nhân đạo, kinh tế, xã hội và chính trị đã dần xây dựng lòng tin và tình hữu nghị giữa hai quốc gia.

Tổng thống Bill Clinton thông báo việc bình thường hóa quan hệ với Việt Nam vào năm 1995, đứng cạnh ông là Thượng nghị sĩ John McCain, một cựu tù binh Chiến tranh Việt Nam
Giai đoạn từ năm 1975 đến 1995 đã để lại những hậu quả sâu sắc cho cả hai quốc gia do thiếu vắng quan hệ ngoại giao. Đối với Mỹ, đó là một thời kỳ thiếu vắng sự hiện diện tại Đông Nam Á, trong bối cảnh còn chưa nguôi ngoai sau thất bại trong Chiến tranh Việt Nam. Ở một khía cạnh nào đó, việc không chủ động đối thoại với Việt Nam khiến Mỹ như thể vẫn đang tiếp tục cuộc chiến, và chưa bao giờ thật sự vượt qua được thất bại của chính mình.
Về phía Việt Nam, sự thiếu vắng quan hệ với Mỹ đồng nghĩa với việc tiếp tục phụ thuộc vào Liên Xô, nền kinh tế trì trệ, và tình trạng bị cô lập trên trường quốc tế kéo dài. Không nghi ngờ gì nữa, việc bình thường hóa quan hệ mang ý nghĩa sống còn đối với Việt Nam nhiều hơn so với Mỹ. Sau khi quan hệ được thiết lập, kinh tế Việt Nam tăng trưởng mạnh mẽ, đặc biệt là sau khi hai nước ký kết Hiệp định Thương mại song phương vào năm 2000.
Kể từ đó, người Mỹ và người Việt Nam đã không ngừng nỗ lực thúc đẩy hợp tác kinh tế, văn hóa và xã hội nhằm củng cố mối quan hệ song phương và cùng nhau xây dựng một tương lai dựa trên hòa bình và ổn định. Năm 2023, hai nước chính thức nâng cấp quan hệ lên mức Đối tác chiến lược toàn diện. Mối quan hệ Mỹ - Việt ngày nay cho thấy cả hai bên đã đi một chặng đường dài trong 50 năm kể từ khi Chiến tranh Việt Nam kết thúc.
Bối cảnh khu vực và thế giới hiện nay cũng đang đặt ra những thách thức mới, buộc cả hai nước phải duy trì đối thoại và hợp tác. Điều này càng trở nên rõ rệt trước sự hiện diện ngày càng mạnh mẽ của Trung Quốc trong khu vực. Kể từ khi khởi xướng chính sách Đổi mới, Việt Nam đã theo đuổi một đường lối đối ngoại cân bằng, chủ trương làm bạn với tất cả các nước. Cho đến nay, Hà Nội đã khá thành công trong việc duy trì thế cân bằng giữa quan hệ với Mỹ và Trung Quốc. Tương lai sẽ tiếp tục là phép thử cho độ bền vững và chiều sâu của mối quan hệ Việt-Mỹ.
- Tác giả Zachary Tayler là nghiên cứu sinh tiến sĩ ngành lịch sử tại Đại học Ohio, chuyên nghiên cứu quan hệ đối ngoại Hoa Kỳ và lịch sử Việt Nam hiện đại. Luận án của ông tập trung vào quá trình bình thường hóa quan hệ ngoại giao giữa Hoa Kỳ và Việt Nam sau năm 1975. Gần đây, ông đã công bố một bài nghiên cứu học thuật về chính sách của Tổng thống Jimmy Carter đối với người tỵ nạn Đông Dương, góp phần mở rộng hiểu biết về chính sách nhân đạo của Hoa Kỳ trong thời kỳ hậu chiến.
- Theo BBC
Comments powered by CComment