Ngày 14 tháng 4, lãnh đạo Tập Cận Bình sẽ bắt đầu chuyến thăm ba nước Đông Nam Á, điểm dừng chân đầu tiên là Việt Nam trong hai ngày, sau đó đến Malaysia và Campuchia.

Ảnh minh họa, chụp từ màn hình YouTube.
Theo tác giả Châu Hiểu Huy phân tích trên Apollo Net ngày 15-04: Có thể nói, trong chuyến công du này, Việt Nam là điểm đến quan trọng nhất nhưng cũng khiến Trung Quốc đau đầu, đặc biệt sau khi Việt Nam tuyên bố không đối đầu với Hoa Kỳ về vấn đề thuế quan và một quan chức cấp cao Việt Nam đưa ra phát ngôn đầy ẩn ý.
Sau khi Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump áp đặt thuế quan đối đẳng, Trung Quốc đáp trả bằng cách tăng thuế đối với Hoa Kỳ, khiến thuế quan hai bên đột ngột tăng vọt lên 145% và 125%, gây sốc cho thế giới. Trong khi đó, các nước Đông Nam Á cũng chịu thuế cao, như Việt Nam, Campuchia, lại tích cực giao thiệp với Hoa Kỳ để tìm cách giảm thuế.
Ngày 10 tháng 4, các bộ trưởng kinh tế của 10 nước thành viên ASEAN, bao gồm Việt Nam, sau hội nghị trực tuyến đã tuyên bố rằng ASEAN đạt đồng thuận không áp dụng biện pháp trả đũa đối với chính sách thuế quan đơn phương của Hoa Kỳ.
ASEAN cho rằng “trả đũa không phải là lựa chọn”, vì điều này không giúp duy trì ổn định khu vực và tăng trưởng kinh tế. ASEAN sẵn sàng đối thoại với Hoa Kỳ, kỳ vọng thay thế đối đầu bằng hợp tác.
Hãy xem Việt Nam đã ứng phó như thế nào.
Kể từ ngày 3 tháng 4, lãnh đạo Việt Nam liên tục tổ chức các cuộc họp, điện đàm, lắng nghe ý kiến doanh nghiệp và thảo luận các giải pháp để bảo đảm cân bằng lợi ích hai bên. Việt Nam còn thành lập nhóm công tác “Tăng cường hợp tác, chủ động ứng phó với điều chỉnh chính sách kinh tế-thương mại của Hoa Kỳ” do Phó Thủ tướng Bùi Thanh Sơn đứng đầu. Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Tô Lâm còn chủ động gọi điện cho Tổng thống Trump.
Theo truyền thông Việt Nam, trong cuộc điện đàm với Tổng thống Trump, ông Tô Lâm bày tỏ Việt Nam sẵn sàng đàm phán để giảm thuế nhập khẩu hàng hóa Hoa Kỳ về mức 0%, đồng thời đề nghị Hoa Kỳ đối xử tương đồng với hàng hóa Việt Nam, tiếp tục mở rộng nhập khẩu các mặt hàng Việt Nam có nhu cầu từ Hoa Kỳ, và tạo điều kiện cho doanh nghiệp Hoa Kỳ tăng đầu tư vào Việt Nam.
Ông Tô Lâm cũng cử Phó Thủ tướng Hồ Đức Phớc làm đặc sứ sang Hoa Kỳ để thúc đẩy công việc cụ thể.
Chưa dừng lại, các biện pháp Việt Nam dự kiến thực hiện bao gồm giảm thuế nhập khẩu một số hàng hóa Hoa Kỳ, xem xét và loại bỏ rào cản kỹ thuật, ứng phó với gian lận xuất xứ và chuyển khẩu bất hợp pháp, đồng thời mở rộng nhập khẩu hàng hóa Hoa Kỳ.
Thực tế, sau khi Tổng thống Trump nhậm chức, Việt Nam đã chủ động giảm thuế nhập khẩu đối với 23 nhóm hàng hóa (một số mức thuế thấp hơn thuế Hoa Kỳ áp với Việt Nam); thúc đẩy mua 250 phi cơ Boeing, một số phi cơ quân sự và khí hóa lỏng (LNG) trị giá 60 tỷ đô la Mỹ, tổng cộng hơn 90 tỷ đô la Mỹ hàng hóa từ Hoa Kỳ.
Trong các biện pháp Việt Nam dự kiến, điều chính quyền Tổng thống Trump quan tâm nhất có lẽ là cách Việt Nam “ứng phó với gian lận xuất xứ và chuyển khẩu bất hợp pháp”.
Nói thẳng ra, đó là cách Việt Nam hỗ trợ Hoa Kỳ hạn chế và chặn đứng hoạt động chuyển khẩu thương mại của Trung Quốc. Đây là mối quan tâm của Hoa Kỳ và cũng là lý do Trung Quốc rêu rao về tình hữu nghị Trung-Việt, bởi mỗi năm giá trị thương mại sản phẩm nhập vào Hoa Kỳ qua các nước Đông Nam Á như Việt Nam là rất lớn.
Rõ ràng, với tư cách là điểm nóng chuyển dịch sản xuất toàn cầu, các nước Đông Nam Á như Việt Nam có vai trò quan trọng trong bố cục chuỗi cung ứng, ảnh hưởng đến cuộc chơi giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc.
Chuyến thăm ba nước Đông Nam Á của lãnh đạo Tập Cận Bình có lẽ nhằm thắt chặt hợp tác chuỗi công nghiệp, đồng thời sử dụng các nước này như vùng đệm thương mại để phân tán rủi ro và đối phó với áp lực từ Hoa Kỳ.
Vậy Việt Nam sẽ chọn hướng đi nào? Liệu Việt Nam sẽ đáp ứng các điều kiện của Hoa Kỳ, hỗ trợ chặn đứng chuyển khẩu thương mại của Trung Quốc để tối đa hóa lợi ích cho mình? Hay dưới sự rót vốn và cam kết lớn từ Trung Quốc, Việt Nam sẽ chọn lọc đáp ứng các điều kiện của Hoa Kỳ? Rõ ràng, trong bối cảnh Trung Quốc bị Hoa Kỳ gây áp lực mạnh mẽ, Việt Nam hiện có sự tự tin chưa từng có.
Trong bài phỏng vấn Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Bùi Thanh Sơn được Thông tấn xã Việt Nam đăng ngày 12 tháng 4, ông Bùi Thanh Sơn nhắc đến lịch sử giao lưu chính trị, kinh tế, văn hóa giữa Việt Nam và Trung Quốc, đồng thời bày tỏ kỳ vọng chuyến thăm của lãnh đạo Tập sẽ đạt được kết quả tốt ở bốn lĩnh vực.
Bốn kết quả này bao gồm: tăng cường giao lưu chiến lược cấp cao, thúc đẩy hợp tác trong các lĩnh vực, tăng cường giao lưu nhân dân, và đáng chú ý nhất là điểm thứ tư: “trên tinh thần thẳng thắn, chân thành, thực chất, thấu hiểu lẫn nhau, đặt mình vào vị trí của nhau, thông qua trao đổi để xử lý thỏa đáng các vấn đề lịch sử còn tồn đọng như biên giới, lãnh thổ, đồng thời theo đồng thuận cấp cao quản lý và giải quyết tốt các bất đồng trên biển, tránh để vấn đề trên biển ảnh hưởng đến bức tranh toàn cảnh phát triển lành mạnh quan hệ hai đảng, hai nước.”
Lời lẽ này rõ ràng ẩn chứa thông điệp.
Tiềm ý của Việt Nam là khi đàm phán với phía Việt Nam, đặc biệt về các vấn đề biên giới, lãnh thổ và bất đồng trên biển, Trung Quốc cần thẳng thắn, tức không che giấu; chân thành, tức không giả dối; thực chất, tức không nói suông về ý thức hệ; thấu hiểu lẫn nhau và đặt mình vào vị trí của nhau, tức Trung Quốc không nên chỉ dựa trên lợi ích của mình.
Việt Nam còn hiếm hoi nhấn mạnh việc “tránh để vấn đề trên biển ảnh hưởng đến bức tranh toàn cảnh phát triển lành mạnh quan hệ hai đảng, hai nước.”
Từ phát ngôn của ông Bùi Thanh Sơn đại diện cho giới lãnh đạo cấp cao Việt Nam, có thể thấy Việt Nam nhận thức rõ vị thế đàm phán đầy lợi thế của mình.
Để Việt Nam tiếp tục hợp tác trong chuỗi công nghiệp tương lai, Trung Quốc cần phải “bỏ ra” nhiều hơn, không chỉ bằng cách tăng đầu tư, viện trợ và hợp tác, mà có thể còn phải nhượng bộ về các bất đồng trên biển và lãnh thổ.
Cuối tháng 10 năm ngoái, Phó Chủ tịch Quân ủy Trung ương Trung Quốc Trương Hựu Hiệp đã thăm Việt Nam và được tiếp đón trọng thị. Trong cuộc gặp với Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam Phan Văn Giang, ông đã đề cập đến tranh chấp trên biển.
Ông Phan Văn Giang nhấn mạnh quan điểm nhất quán của Việt Nam là giải quyết mọi tranh chấp và bất đồng bằng biện pháp hòa bình, dựa trên luật pháp quốc tế, bao gồm Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS), thực hiện đầy đủ Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC), đồng thời sớm đàm phán và ký kết Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC) thực chất, hiệu quả, phù hợp với luật pháp quốc tế và mang lại lợi ích cho các bên liên quan.
Đây cũng là quan điểm mà cựu Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng đã trình bày với lãnh đạo Tập Cận Bình trong chuyến thăm Trung Quốc năm 2022.
Sau đó, hai bên đã ký kết “Bản ghi nhớ về tăng cường hợp tác quốc phòng giữa Bộ Quốc phòng Việt Nam và Bộ Quốc phòng Trung Quốc” và “Thỏa thuận hợp tác biên phòng giữa Bộ Quốc phòng Việt Nam và Bộ Quốc phòng Trung Quốc”. Chủ tịch nước Việt Nam Lương Cường cũng đánh giá cao kết quả cuộc gặp giữa ông Phan Văn Giang và ông Trương Hựu Hiệp.
Theo truyền thông Việt Nam, điều này đánh dấu sự nâng cấp hợp tác quốc phòng và làm sâu sắc hơn quan hệ chiến lược Việt-Trung.
Tuy nhiên, Việt Nam dường như chưa hài lòng với điều này.
Vậy lần này, trong chuyến thăm Việt Nam, lãnh đạo Tập sẽ nhượng bộ ở những lĩnh vực nào? Sau chuyến thăm, Việt Nam sẽ lựa chọn ra sao? Tác giả Châu Hiểu Huy cho rằng, một mặt, với chính sách ngoại giao “cây tre” của Đảng Cộng sản Việt Nam, sau khi nhận thấy chiến lược kiềm chế toàn diện Trung Quốc của chính quyền Tổng thống Trump, để tránh gây bất mãn hoặc bị Hoa Kỳ trừng phạt, Việt Nam sẽ không duy trì quan hệ quá thân thiết với Trung Quốc trên thực chất.
Lựa chọn của Việt Nam về vấn đề thuế quan và mong muốn Trung Quốc “đặt mình vào vị trí của nhau” đã nói lên điều đó.
Mặt khác, do mối liên hệ kinh tế chặt chẽ giữa Việt Nam và Trung Quốc, Việt Nam khó có thể cắt đứt hoàn toàn hợp tác với Trung Quốc.
Theo số liệu hải quan Việt Nam, kim ngạch thương mại song phương Việt-Trung năm 2024 đạt 205,2 tỷ đô la Mỹ, lập kỷ lục mới, đưa Trung Quốc trở thành đối tác thương mại đầu tiên của Việt Nam vượt mốc 200 tỷ đô la Mỹ.
Việt Nam cũng cần Trung Quốc.
Tuy nhiên, ít nhất ở thời điểm hiện tại, Việt Nam đã có một số tự tin để nói “không” với Trung Quốc, và lựa chọn cuối cùng của Việt Nam cũng sẽ quyết định hướng đi tương lai của nước này.
Theo DKN
Comments powered by CComment