Group News: Tin copy

Khi viễn cảnh độc lập dân tộc lan rộng như lửa cháy trong lòng người Việt Nam vào năm 1945, người Công giáo cũng hân hoan không kém gì so với phần còn lại của dân chúng.

Nhà thờ Đức Mẹ La Vang, Quảng Trị, năm 1998Một buổi lễ ở Nhà thờ Đức Mẹ La Vang, Quảng Trị, năm 1998

Tại các thành thị, người Công giáo nhiệt tình tham gia các cuộc biểu tình đòi độc lập, phủ kín các ngả đường. Các làng Công giáo ở nông thôn tự tổ chức những buổi lễ mừng riêng. Các chủng sinh trẻ tuổi bất chấp lệnh của các vị thừa sai yêu cầu không tham gia chính trị; một số cộng đồng thậm chí còn ngăn cản các thừa sai vào nhà thờ hoặc trục xuất họ hoàn toàn. Báo chí Công giáo và các hội đoàn giáo dân đã tích cực truyền tải tin tức chính trị và vận động người dân ủng hộ nền độc lập. Hình tượng tử đạo Công giáo – suốt nhiều thế kỷ là biểu tượng của sự ly khai và bách hại đối với người Công giáo Việt Nam – lúc bấy giờ, vào năm 1945, đã trở thành hiện thân của những hy sinh mà người Công giáo sẵn sàng dấn thân vì tổ quốc Việt Nam.

Tinh thần yêu nước ấy bắt nguồn từ những chuyển biến sâu sắc về văn hóa và chính trị trong đời sống Công giáo Việt Nam dưới thời Pháp thuộc. Sau Thế chiến I, Tòa Thánh Vatican chủ trương xây dựng các giáo hội quốc gia bền vững và tự chủ tại châu Á và châu Phi, thoát khỏi sự giám sát của các hội thừa sai. Năm 1925, Tòa Thánh Roma bổ nhiệm vị đại diện Giáo hoàng đầu tiên trực tiếp đến Việt Nam, và đến năm 1933, đã truyền chức giám mục cho người Việt Nam đầu tiên: Đức cha Nguyễn Bá Tòng.

Sự phát triển của cơ sở hạ tầng và phương tiện giao thông đã tạo điều kiện cho người Công giáo từ khắp nơi trong nước tham gia các Đại hội Thánh thể và hành hương Đức Mẹ. Trình độ dân trí ngày càng nâng cao giúp người Công giáo Việt Nam đọc được ngày càng nhiều ấn phẩm quốc ngữ, qua đó họ cảm nhận rõ hơn mối liên kết giữa các cộng đồng Công giáo trong nước cũng như với thế giới Công giáo toàn cầu. Những chuyển biến như vậy đã hình thành một ý thức tôn giáo dân tộc mạnh mẽ, góp phần thúc đẩy làn sóng chủ nghĩa dân tộc chính trị bùng nổ trong đời sống Công giáo Việt Nam vào năm 1945 và những năm sau đó.

Chủ nghĩa dân tộc Công giáo hiện đại ở Việt Nam phản ánh hai định hướng tư tưởng chính, cả hai đều xuất hiện từ thời kỳ giữa hai cuộc thế chiến. Thứ nhất là Công giáo Xã hội, vốn bắt nguồn từ nhiều thập niên phê phán chủ nghĩa tư bản công nghiệp trong giới Công giáo châu Âu. Quan điểm này cho rằng đạo đức và lòng bác ái không còn đủ để giải quyết tình trạng bất bình đẳng và khốn khó về kinh tế, và rằng nhà nước cần can thiệp tích cực hơn để bảo đảm phúc lợi và phẩm giá cho mọi người. Tại Việt Nam, Công giáo Xã hội phát triển như một phản ứng trước những bất cập và lạm dụng của chế độ thực dân, đặc biệt là trong giai đoạn Đại Khủng hoảng những năm 1930.

 Tư tưởng thứ hai là chủ nghĩa chống cộng, được hình thành từ lập trường phản đối của Tòa Thánh Vatican đối với một hệ tư tưởng chính trị toàn cầu mà Giáo hội xem là vô thần và trái luân lý. Chủ nghĩa chống cộng bắt đầu lan rộng trong cộng đồng Công giáo Việt Nam sau các cuộc khởi nghĩa trong phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh năm 1930–1931 (khi một số cộng đồng Công giáo trở thành mục tiêu tấn công), cũng như trong làn sóng hoạt động hợp pháp của phong trào cộng sản tại Đông Dương vào các năm 1936–1937.
 
Nhà thờ tại Hà Nội vào năm 1954

Trước Nhà thờ Thánh Giuse (Nhà thờ Lớn Hà Nội) vào năm 1954

Vào năm 1945, tinh thần chống cộng nhanh chóng pha trộn vào sự hào hứng với độc lập dân tộc. Cuối năm 1946, khi súng đạn vang lên giữa Việt Nam và Pháp, nhiều tín hữu Công giáo đã mang trong lòng nỗi bất an trước ảnh hưởng ngày càng lớn của cộng sản trong bộ máy chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Các đảng phái không cộng sản phần lớn đã bị loại khỏi bộ máy chính quyền, và nhà nước bắt đầu tìm cách kiểm soát chặt chẽ hơn các hội đoàn và trường học Công giáo.

Lê Hữu Từ, vị giám mục đầy quyền uy của Giáo phận Phát Diệm với ảnh hưởng lớn trong giới Công giáo, vẫn duy trì đối thoại với các lãnh đạo cộng sản nhưng cũng bắt đầu thúc đẩy việc mở rộng quyền tự chủ trước sự kiểm soát của nhà nước cộng sản. Cho đến năm 1950, Phát Diệm cùng với giáo phận lân cận là Bùi Chu – vùng đất được xem là trung tâm lịch sử của Công giáo Việt Nam – vẫn phần lớn nằm ngoài quyền kiểm soát của cả chính quyền Pháp lẫn cộng sản. Hai giáo phận này đã tổ chức được các lực lượng vũ trang riêng, một hệ thống thông tin – tuyên truyền, cùng với các tờ báo và đài phát thanh của chính mình. Tại miền Nam, nơi cộng đồng Công giáo phân bố rải rác hơn và lực lượng cộng sản chưa thiết lập được thế độc quyền chính trị như ở miền Bắc, nhiều người Công giáo vẫn tiếp tục tham gia vào phong trào kháng chiến chống Pháp với thành phần tư tưởng đa dạng và linh hoạt hơn.

Vị thế của người Công giáo Việt Nam trong cuộc chiến giành độc lập đã thay đổi nhanh chóng từ năm 1950 trở đi. Chiến thắng của phe cộng sản tại Trung Quốc vào năm 1949 không chỉ cung cấp hậu thuẫn vật chất cho phong trào cộng sản Việt Nam mà còn tiếp thêm nhiệt huyết về mặt ý thức hệ. Mối đe dọa cộng sản ngày càng lan rộng tại châu Á đã thúc đẩy Pháp và các lực lượng chính trị chống cộng người Việt hợp tác thành lập Quốc gia Việt Nam, như một giải pháp dân tộc chủ nghĩa nhằm đối trọng với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tòa Thánh Roma đã công nhận Quốc gia Việt Nam vào đầu năm 1950.

Hai người đang cầu nguyện trong một nhà thờ tại Sài Gòn vào năm 1959

Hai người đang cầu nguyện trong một nhà thờ tại Sài Gòn vào năm 1959

Chiến tranh leo thang sau năm 1950 đã dần làm xói mòn quyền tự chủ của hai giáo phận Phát Diệm và Bùi Chu, vốn rơi vào quyền kiểm soát của Quốc gia Việt Nam sau năm 1951. Khi hàng giáo phẩm chọn đứng hẳn về phía phi cộng sản, người Công giáo sống trong các vùng do chính quyền Việt Minh kiểm soát bắt đầu phải đối mặt với sự nghi kỵ ngày càng tăng và những hạn chế chặt chẽ hơn trong đời sống hằng ngày. Một số ít linh mục và trí thức Công giáo vẫn tiếp tục công khai ủng hộ Việt Minh sau năm 1951, phần lớn là do niềm tin chân thành, nhưng từ thời điểm đó trở đi, họ đã trở thành thiểu số trong cộng đồng Công giáo.

Chiến thắng của lực lượng cộng sản tại Điện Biên Phủ vào tháng 5 năm 1954 đã đặt ra cho phần lớn người Công giáo miền Bắc – cũng như nhiều người dân khác trong khu vực – một lựa chọn vô cùng khó khăn: nên ở lại quê hương dưới sự quản lý của chính quyền cộng sản, hay rời bỏ tất cả để đi vào một tương lai bất định ở miền Nam phi cộng sản?

Một đa số rõ rệt trong cộng đồng Công giáo miền Bắc – từ hai phần ba đến ba phần tư – đã chọn rời đi, nhưng đó không phải là một quyết định dễ dàng hay hiển nhiên. Những người lựa chọn ra đi đã làm vậy vì nhiều lý do: lo ngại về những giới hạn đối với tự do tôn giáo, quan ngại về điều kiện kinh tế khó khăn tại miền Bắc, sự ủng lập trường chống cộng không nhất thiết gắn với đức tin, ảnh hưởng từ giới giáo sĩ, cũng như tác động từ các chiến dịch tuyên truyền do Hoa Kỳ dẫn đầu (mặc dù chiến dịch tuyên truyền này có phần nổi bật, nhưng cuối cùng lại không mang tính quyết định). Sau giai đoạn tạm trú ban đầu tại các trại tỵ nạn, chính quyền Việt Nam Cộng hòa đã tiến hành tái định cư người Công giáo miền Bắc trên khắp miền Nam, theo một phương án mà họ kỳ vọng sẽ góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế và bảo đảm an ninh chính trị.

Tuy nhiên, đã có hàng trăm ngàn người Công giáo lựa chọn không rời miền Bắc vào năm 1954. Họ cũng có nhiều lý do khác nhau. Chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã ngăn cản một số người di cư, nhưng cũng có nhiều người chủ động ở lại vì niềm hy vọng dè dặt vào một bối cảnh chính trị hậu chiến ổn định hơn, vì mối ràng buộc với gia đình và cộng đồng, vì mong muốn giữ gìn đất đai và tài sản tổ tiên, hoặc đơn giản chỉ vì lo sợ trước một tương lai bất định ở miền Nam.

Trong thời chiến, chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã đối xử với người Công giáo bằng sự nghi kỵ và thù địch. Họ cấm các trường học của giáo xứ, hạn chế nghiêm ngặt hoạt động của các hội đoàn Công giáo và theo dõi chặt chẽ các linh mục cùng giới tu sĩ. Chỉ sau một thời gian ngắn, phần lớn người Công giáo đã cảm thấy bất mãn sâu sắc với chế độ cộng sản. Cuộc nổi dậy lớn nhất chống lại chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trước năm 1975 diễn ra tại Quỳnh Lưu – một huyện có đông đảo giáo dân. Mặc dù chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa hạn chế mạnh mẽ vai trò của Tòa Thánh Vatican trong đời sống giáo hội, nhưng khác với Trung Quốc, họ không bao giờ thành lập một hệ thống giáo hội độc lập để đối trọng với Roma.

Nhiều người Công giáo ở miền Nam tin rằng họ đã tìm thấy vị cứu tinh nơi Ngô Đình Diệm – người trở thành nguyên thủ Công giáo đầu tiên trong lịch sử Việt Nam khi tiếp quản chính quyền từ cựu hoàng Bảo Đại và tuyên bố thành lập Việt Nam Cộng hòa vào năm 1955. Ý thức hệ chủ đạo của Ngô Đình Diệm là chủ nghĩa nhân vị – một dòng tư tưởng có ảnh hưởng mạnh mẽ trong Công giáo châu Âu từ những năm 1930 – đã dung hòa các yếu tố của Công giáo Xã hội và chủ nghĩa chống cộng trong chính trị Công giáo Việt Nam hiện đại. Thông qua các tổ chức xã hội, cải cách điền địa, chương trình tái định cư, xây dựng ấp chiến lược và các sáng kiến nhà nước khác, Ngô Đình Diệm hình dung một nhà nước can thiệp mạnh mẽ được dẫn dắt bởi các nguyên tắc đạo đức và gắn kết tập thể là một phương thuốc đối kháng với chủ nghĩa tư bản cá nhân và chủ nghĩa cộng sản vô thần.

Ngô Đình Diệm dựa nhiều vào các mạng lưới đồng minh chính trị trong giới Công giáo để bổ nhiệm nhân sự vào các vị trí quan trọng trong chính quyền và quân đội Việt Nam Cộng hòa. Điều này mang lại cho một số cá nhân, cộng đồng và tổ chức Công giáo cơ hội tiếp cận đặc quyền đối với quyền lực và tài nguyên nhà nước. Ảnh hưởng của Công giáo đặc biệt rõ nét tại Huế và vùng phụ cận, nơi một người anh của Diệm – Ngô Đình Thục – làm tổng giám mục, và một người em – Ngô Đình Cẩn – dùng lực lượng dân vệ và mật vụ để cai trị bằng bàn tay sắt.

Sự đa dạng trong văn hóa và chính trị Công giáo tại miền Nam Việt Nam đã thể hiện rõ ngay sau khi đất nước bị chia cắt. Phần lớn người Công giáo miền Bắc di cư vào Nam cùng với toàn bộ giáo xứ của họ, thường được tổ chức thành những làng có đa số hoặc hoàn toàn là giáo dân. Cả chính quyền Việt Nam Cộng hòa lẫn giới giáo quyền (đặc biệt là giám mục Phạm Ngọc Chỉ, một nhân vật có ảnh hưởng lớn, người đã dẫn đầu cuộc di cư từ Bùi Chu và sau đó đảm nhiệm Giáo phận Quy Nhơn) đều nỗ lực duy trì các cộng đồng này tại miền Nam. Tuy nhiên, điều đó đã gây khó khăn cho quá trình hội nhập về tinh thần và xã hội với người Công giáo bản địa, vốn có đời sống trần thế không bị chi phối mạnh mẽ bởi cấu trúc làng đạo và ảnh hưởng của giới giáo sĩ như ở miền Bắc.

Tổng giám mục Ngô Đình Thục (thứ ba từ trái) và Tổng thống Ngô Đình Diệm (thứ hai từ phải) vào năm 1963

Tổng giám mục Ngô Đình Thục (thứ ba từ trái) và Tổng thống Ngô Đình Diệm (thứ hai từ phải) vào năm 1963

Dù phần lớn người Công giáo ủng hộ Ngô Đình Diệm cho đến khi ông bị lật đổ, những khác biệt và chia rẽ chính trị trong nội bộ Công giáo miền Nam đã bộc lộ từ cuối thập niên 1950. Một số người bắt đầu chỉ trích sự hạn chế của các chính sách cải cách xã hội và xu hướng chuyên quyền ngày càng rõ của Ngô Đình Diệm, trong khi những người khác nghi ngờ khả năng cũng như cam kết của chính quyền ông trong việc đẩy lùi các hoạt động quân sự ngày càng gia tăng của cộng sản tại miền Nam.

Ngay cả Tòa Thánh Vatican – dù luôn công khai ủng hộ Diệm – cũng đã đặt dấu hỏi về cách ông xử lý phong trào Phật giáo ngày càng có tổ chức và bất bình, đồng thời đã chủ động giới hạn sự can thiệp của chính quyền đối với Giáo hội Công giáo Việt Nam, mà biểu hiện rõ nhất là việc từ chối áp lực từ phía chính quyền trong việc bổ nhiệm ông Ngô Đình Thục làm tổng giám mục Sài Gòn. Sự thiếu khoan dung của chế độ Ngô Đình Diệm đối với một số khía cạnh trong đời sống tôn giáo có tổ chức của Phật giáo – đặc biệt là việc đàn áp các hoạt động đối lập chính trị của Phật giáo – đã đóng vai trò quan trọng trong sự sụp đổ của chế độ này qua cuộc đảo chính quân sự do Hoa Kỳ hậu thuẫn vào tháng 11 năm 1963.

Tuy nhiên, người Công giáo vẫn giữ vai trò có ảnh hưởng trong đời sống xã hội và chính trị miền Nam trong suốt mười hai năm tiếp theo – giai đoạn đầy bất ổn chính trị và chiến tranh tàn khốc mà Việt Nam Cộng hòa phải đối mặt cho đến khi sụp đổ vào năm 1975. Hệ thống tổ chức và mạng lưới thể chế vững mạnh của Giáo hội, với sự hỗ trợ từ Tòa Thánh Vatican, đã trở thành nguồn lực thiết yếu trong các hoạt động hỗ trợ xã hội và nhân đạo, vào thời điểm mà chính quyền Việt Nam Cộng hòa gặp rất nhiều khó khăn trong việc đáp ứng nhu cầu to lớn của xã hội.

Một nữ tu đi bộ ngang qua một thi thể người lính chết trận (đã được làm mờ) gần Biên Hòa vào năm 1969

Một nữ tu đi ngang qua thi thể một người lính chết trận (đã được làm mờ) gần Biên Hòa vào năm 1969

Giáo hội tham gia tích cực vào công tác tái định cư người tỵ nạn, điều hành các viện mồ côi và phòng khám y tế, đào tạo giáo viên và nhân viên chăm sóc, cũng như tổ chức các chương trình quyên góp và cứu trợ. Những hoạt động này vừa mang tính thiêng liêng vừa mang hàm ý chính trị – vừa thể hiện tinh thần bác ái và dấn thân xoa dịu khổ đau của đạo Công giáo, vừa phản ánh khát vọng tái thiết và mở rộng ảnh hưởng của Công giáo trong đời sống chính trị quốc gia.

Giai đoạn quân quản và sự khôi phục chính quyền dân sự vào năm 1967 cũng góp phần thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa hoạt động tổ chức và vận động chính trị trong giới Công giáo. Một nhóm nhỏ nhưng có tiếng nói và ảnh hưởng trong đời sống Công giáo đã thể hiện lập trường phê phán nhất quán từ góc độ cánh tả đối với xu hướng chuyên chế của chính quyền Việt Nam Cộng hòa, cũng như đối với vai trò mà họ cho là một phần trách nhiệm của chính quyền này trong cuộc chiến tranh đang tàn phá đất nước.

Những gương mặt nổi bật nhất trong nhóm này từng du học ở nước ngoài vào thập niên 1940 và 1950, và chịu ảnh hưởng sâu đậm từ các trào lưu chính trị Công giáo thiên tả ở châu Âu thời hậu chiến. Trong số đó có những nhân vật như Chân Tín, Nguyễn Đình Đầu, Trương Bá Cần, cùng nhiều người khác gắn bó với các tạp chí tiến bộ như Sống Đạo, Hành Trình và Đối Diện. Các ấn phẩm này kêu gọi một giải pháp trung lập cho chiến tranh, thúc đẩy đối thoại liên tôn giáo nhằm giảm căng thẳng với Phật giáo, và cổ vũ các chính sách can thiệp kinh tế sâu rộng của nhà nước như một phương tiện để đổi mới xã hội. Không có gì ngạc nhiên khi chính quyền Việt Nam Cộng hòa thường xuyên kiểm duyệt các ấn phẩm của họ và sách nhiễu những nhân vật chủ chốt, ngay cả trong thời kỳ cầm quyền của Tổng thống Công giáo Nguyễn Văn Thiệu.

Người Công giáo cũng thách thức giới lãnh đạo Việt Nam Cộng hòa từ phía cánh hữu. Dưới sự dẫn dắt của các nhân vật như linh mục Hoàng Quỳnh, Trần Hữu Thanh và nhiều giáo sĩ cũng như giáo dân có ảnh hưởng khác trong làn sóng di cư từ miền Bắc, khuynh hướng chính trị này của Công giáo Việt Nam phản đối các nỗ lực sau cuộc đảo chính lật đổ Ngô Đình Diệm nhằm giảm ảnh hưởng của Công giáo trong chính quyền và tìm kiếm các giải pháp trung lập để kết thúc chiến tranh.

Năm 1966, họ đã huy động lực lượng phản đối làn sóng hoạt động mới của giới Phật giáo chống lại chính quyền Nguyễn Cao Kỳ. Chủ nghĩa chống cộng đầy nhiệt thành của phe này là cơ sở cho những phê phán liên tục đối với nỗ lực chiến tranh của Việt Nam Cộng hòa, mà họ xem là thiếu hiệu quả và nửa vời.

Tuy nhiên, lập trường chống cộng chưa bao giờ đủ để che lấp những chia rẽ khác xuất hiện trong chính trường Công giáo Việt Nam dưới thời Đệ Nhị Cộng hòa – những chia rẽ này thường xuyên bộc lộ tại Quốc hội. Các vấn đề như vai trò và cách hành xử của đồng minh Hoa Kỳ, việc chính quyền kìm hãm tranh luận chính trị và tiếng nói bất đồng nhân danh chiến tranh, tình trạng tham nhũng tràn lan trong bộ máy hành chính và quân đội, cũng như mối quan hệ giữa cộng đồng Công giáo thiểu số với các lực lượng chính trị khác (đặc biệt là Phật giáo), đều là những yếu tố khiến phe cánh hữu Công giáo tại miền Nam không ngừng rơi vào tình trạng chia rẽ nội bộ.

Linh mục Tađêô Nguyễn Văn Lý bị công an Việt Nam cùm tay trong vụ án chấn động vào năm 2007
Linh mục Tađêô Nguyễn Văn Lý bị công an Việt Nam cùm tay, ông bị phạt tù 8 năm vào năm 2007 về tội tuyên truyền chống nhà nước

Sau năm 1975, người Công giáo Việt Nam gặp nhiều khó khăn trong việc xác lập mối quan hệ với chính quyền mới – một chính quyền vốn xem họ, không hoàn toàn vô cớ, như những đối thủ tiềm tàng. Một số người Công giáo từng lâu nay chỉ trích chính quyền Việt Nam Cộng hòa nay quay sang vận động sự ủng hộ của cộng đồng Công giáo dành cho nhà nước cộng sản. Một số cơ sở Giáo hội tiếp tục đóng vai trò nhân đạo trong bối cảnh nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam bắt đầu công cuộc tái thiết đầy gian nan.

Tuy vậy, nhìn chung, vị thế của Giáo hội trong Việt Nam thời hậu chiến là và vẫn tiếp tục là một thực tại đầy khó khăn: các giới hạn nghiêm ngặt đối với giáo dục, hội đoàn và tự do ngôn luận; các xung đột thường xuyên với Tòa Thánh Vatican về việc bổ nhiệm hàng giáo phẩm; việc nhà nước trưng thu đất đai của Giáo hội; và sự đàn áp nặng nề đối với những người Công giáo hoạt động chính trị.

Cũng như vào năm 1954, nhiều người Công giáo Việt Nam một lần nữa đã "bỏ phiếu bằng đôi chân" sau năm 1975. Hàng trăm ngàn người đã rời khỏi đất nước – một lần nữa, với tỉ lệ cao hơn nhiều so với tỷ trọng dân số của họ. Phần lớn trong số này cuối cùng đã định cư tại Hoa Kỳ, trở thành thế hệ đầu tiên của một cộng đồng tôn giáo mà hiện nay chiếm khoảng một phần ba dân số người Mỹ gốc Việt.

Câu chuyện của Công giáo Việt Nam phản ánh nhiều khía cạnh đã khiến lịch sử Việt Nam trong thế kỷ XX trở nên chia rẽ và đau thương. Khi chế độ thực dân Pháp chấm dứt, người Công giáo Việt Nam thể hiện cam kết mạnh mẽ trong việc xây dựng một quốc gia Việt Nam độc lập. Nhưng đồng thời, họ cũng mang một bản sắc sắc tộc-tôn giáo riêng biệt, gắn liền với quá khứ từng bị gạt ra bên lề và bị bách hại.

Hình Hồ Chí Minh trong một nhà thờ tại TP HCM vào năm 1994

,Hình lãnh tụ Hồ Chí Minh trong một nhà thờ tại TP HCM vào năm 1994

Bản sắc tôn giáo chưa bao giờ hoàn toàn quyết định các lựa chọn mà người Công giáo Việt Nam đưa ra trong đời sống xã hội và chính trị. Tuy nhiên, nó đã định hình nơi nhiều người một mối quan hệ đầy căng thẳng và đối kháng với chủ nghĩa cộng sản – một mô hình xã hội mà nhiều tín hữu Công giáo cho là vô luân và không thể chấp nhận. Do đó, người Công giáo là một trong nhiều bộ phận trong xã hội Việt Nam đã ủng hộ một quốc gia phi cộng sản không phải một cách thụ động hay hời hợt, mà xuất phát từ những giá trị sâu xa và cốt lõi nhất của họ.

Tuy nhiên, người Công giáo Việt Nam chưa bao giờ là một khối thống nhất trong đời sống chính trị vốn đa dạng và đầy chia rẽ của đất nước. Ở miền Nam, họ thường bất đồng với nhau về con đường xây dựng một quốc gia phi cộng sản. Còn ở miền Bắc, và trên cả nước sau năm 1975, một số người Công giáo khác lại tìm thấy những lý do thực dụng – thậm chí mang tính lý tưởng – để chấp nhận sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và góp phần vào tầm nhìn của nhà nước trong việc xây dựng quốc gia.

Sự đa dạng và phân hóa trong đời sống chính trị của Công giáo Việt Nam – một trong những cộng đồng có bản sắc văn hóa riêng biệt và nhất quán nhất trong xã hội Việt Nam – cho thấy mức độ chia rẽ sâu sắc và không thể giản lược của cuộc nội chiến Việt Nam.

Charles Keith là nhà sử học chuyên về Việt Nam hiện đại, với trọng tâm nghiên cứu về xã hội, văn hóa và chính trị trong thời kỳ thuộc địa và phi thực dân hóa. Ông nhận bằng tiến sĩ từ Đại học Yale và hiện là Giáo sư giảng dạy tại Đại học Michigan State University, nơi ông là thành viên của Trung tâm Nghiên cứu châu Á và Chương trình Nghiên cứu người Mỹ gốc Á Thái Bình Dương. Tác phẩm Catholic Vietnam (Công giáo Việt Nam, [2012]) của ông đã giành được nhiều giải thưởng học thuật uy tín và được dịch sang tiếng Việt. Cuốn sách mới nhất của ông, Subjects and Sojourners (2024), khai thác lịch sử người Đông Dương tại Pháp và đang được dịch sang tiếng Việt. Ông cũng là đồng chủ nhiệm Dự án Lưu trữ Nhóm Việt Nam tại Đại học Michigan State University và từng là đồng tổng biên tập Journal of Vietnamese Studies (2018-2022).

Theo BBC


Comments powered by CComment

Tin nổi bật

Tin xem nhiều

Ngôi sao

Tin liên quan

Bài viết Khác

Trang Thông Tấn Xã Việt Nam là cơ quan XÃ HỘI DÂN LUẬN chính thức của CỘNG ĐỒNG NGƯỜI VIỆT nhằm cung cấp thông tin nhanh chính xác.

Quý vị cần liên hệ về quảng cáo và góp ý với chúng tôi, xin gửi email tới This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it.

      

Đăng ký nhận thông tin mới nhất

LIÊN HỆ QUẢNG CÁO
Thông Tấn Xã Việt Nam
ĐT:(714) 589 7520
Email: ttxavietnam@gmail.com.