Trong những ngày gần đây, hình ảnh Nguyễn Tấn Dũng lại xuất hiện dày đặc trên các phương tiện truyền thông chính thống. Không chỉ thế, chúng thường gắn liền với hình ảnh Tô Lâm, Tổng Bí thư đương nhiệm.
Lời hứa mơ hồ bảo đảm an ninh cho Ukraina đẩy Donald Trump vào thế kẹt
Sự xuất hiện này khiến dư luận bất ngờ, bởi lẽ kể từ sau khi buộc rời ghế Thủ tướng vào năm 2016 để về “làm người tử tế”, ông Dũng gần như vắng bóng trong chính trường, chỉ giữ một thái độ im lặng “ẩn dật” tại tư dinh Sài Gòn. Nay việc ông xuất hiện trở lại bên cạnh Tô Lâm, trong bối cảnh nội bộ Đảng Cộng sản đang thanh lọc , khiến nhiều người đặt câu hỏi: liệu sự trở lại này mang ý nghĩa phục hồi vai trò chính trị, hay đơn giản chỉ là một “nước cờ nhân sự” của Tô Lâm?

Nhưng trước khi bàn đến vai trò hiện tại, cần nhìn lại 10 năm cầm quyền (2006–2016) để thấy rõ vì sao Nguyễn Tấn Dũng bị coi là một trong những thủ tướng tai tiếng nhất trong lịch sử Việt Nam đương đại.
Tham vọng quyền lực và sự bảo trợ chính trị
Nguyễn Tấn Dũng xuất thân từ công an, từng giữ chức Thứ trưởng Bộ Công an, rồi Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, Phó Thủ tướng thường trực trước khi lên làm Thủ tướng năm 2006. Ở thời điểm đó, ông được giới thiệu như một gương mặt trẻ, có khả năng cải cách, mang hình ảnh hiện đại hơn so với các lãnh đạo già nua, bảo thủ.
Tuy nhiên, chỉ vài năm sau, hình ảnh ấy sụp đổ. Chính quyền của ông nhanh chóng trở thành “chính phủ của các nhóm lợi ích”, nơi quyền lực được cá nhân hóa, các tập đoàn nhà nước trở thành công cụ rút ruột ngân sách, và hệ thống tài chính bị thao túng bởi những “sân sau” gắn liền với gia đình ông.
Tham nhũng tràn lan nhưng không xử lý
Điểm nổi bật nhất là sự bất lực (hoặc cố tình buông lỏng) trong chống tham nhũng. Chính ông từng tuyên bố trước Quốc hội rằng: “Tôi chưa kỷ luật ai cả”. Lời thú nhận ấy trở thành bằng chứng cho thấy ông không hề có quyết tâm chống tham nhũng, dù ở thời ông làm thủ tướng, nạn tham nhũng đã phát sinh như căn bệnh trầm kha.
Toàn bộ hệ thống quan chức sau này bị ông Nguyễn Phú Trọng làm “củi” đưa vào “đốt lò” như Đinh La Thăng, Trịnh Xuân Thanh, đến hàng loạt tướng lĩnh công an, quân đội, quan chức ngân hàng… đều trưởng thành, thăng tiến dưới thời Nguyễn Tấn Dũng.
Giải thể Viện IDS, bóp nghẹt trí thức phản biện
Ngay khi mới nhậm chức, ông Dũng đã ký quyết định giải thể Viện Nghiên cứu Phát triển (IDS), nơi tập hợp nhiều trí thức, chuyên gia độc lập như Hoàng Tụy, Nguyễn Quang A, Phạm Chi Lan, Lê Đăng Doanh, Chu Hảo, Tương Lai, Phan Huy Lê, Trần Đức Nguyên, Trần Việt Phương, Vũ Quốc Huy, Nguyên Ngọc, Nguyễn Trung, Phan Đình Diệu, Vũ Kim Hạnh, Phạm Duy Hiển, Huỳnh Sơn Phước.
Hành động này cho thấy ông chọn con đường độc tài, loại bỏ phản biện, tư vấn xã hội, dập tắt mọi ý tưởng cải cách chính trị thực sự.
Những “Quả đấm thép” tan chảy
Bắt chước Nam Hàn, nơi thành công với những cheabol (tập đoàn) đồ sộ, Ông khởi xướng mô hình các tập đoàn kinh tế nhà nước như Vinashin, Vinalines, EVN, PetroVietnam… được ca ngợi là “quả đấm thép của nền kinh tế” với kỳ vọng phát triển kinh tế.
Kết quả:
Vinashin vỡ nợ hơn 4,5 tỷ USD, trở thành biểu tượng thất bại.
Vinalines thua lỗ, lãnh đạo bị tử hình (Dương Chí Dũng).
Hàng loạt tập đoàn khác chìm trong nợ nần, tham nhũng.
Đây là minh chứng cho sự quản trị tùy tiện, phung phí tài sản công, biến những “quả đấm thép” thành “quả đấm chì” đè nặng lên nền kinh tế vốn đang èo uột.
Lũng đoạn ngân hàng, vai trò của gia đình
Dưới danh nghĩa “tái cơ cấu hệ thống ngân hàng”, ông Dũng đã để con gái là Nguyễn Thị Thanh Phượng thao túng trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng thông qua Ngân hàng Bản Việt và các công ty chứng khoán. Cùng lúc đó, hàng loạt đại án ngân hàng (Hà Văn Thắm, OceanBank, Phạm Công Danh, VNCB) phơi bày sự lũng đoạn và cấu kết quyền lực.
Khai thác tài nguyên vô tội vạ, Dự án bô xít Tây Nguyên
Ông Dũng phê duyệt dự án bô xít Tây Nguyên do Trung Cộng làm tổng thầu, bất chấp phản đối của nhiều tướng lĩnh, trí thức, nhà khoa học. Dự án không hiệu quả về kinh tế, phá hoại môi trường và đe dọa an ninh quốc phòng vì đã đưa hàng vạn lao động từ Trung Cộng vào lập làng, ấp tại Tây Nguyên .
Đây là ví dụ điển hình của việc đặt lợi ích nhóm và ý đồ chính trị lên trên lợi ích dân tộc.
Phá hoại nền kinh tế thị trường non trẻ
Nếu như Thủ tướng Võ Văn Kiệt và Phan Văn Khải đã cố công đặt nền móng cho một nền kinh tế thị trường lành mạnh, thì dưới thời Nguyễn Tấn Dũng, mọi nguyên tắc bị đảo lộn. Thay vì cải cách thể chế, ông tập trung vào đặc quyền đặc lợi cho doanh nghiệp sân sau, khiến thị trường méo mó, nợ công phình to, bất động sản và ngân hàng rơi vào vòng xoáy khủng hoảng.
Mị dân với tuyên bố “hữu nghị viển vông”
Năm 2014, khi xảy ra vụ giàn khoan HD-981, ông Dũng tuyên bố “Không đánh đổi chủ quyền lấy hữu nghị viển vông”. Khi ấy, lời nói được tung hô, nhưng thực tế, ông không có hành động cụ thể nào bảo vệ chủ quyền lãnh thổ. Trong suốt nhiệm kỳ thủ tướng ông, Trung Cộng ngày càng lấn lướt ở Biển Đông, trong khi Việt Nam tiếp tục lệ thuộc vào Trung Cộng về kinh tế và công nghệ.
Đàn áp đối lập và bỏ tù trí thức
Thời Nguyễn Tấn Dũng cũng là giai đoạn đàn áp chính trị mạnh mẽ. Nhiều trí thức, luật sư, blogger bị bắt, trong đó có vụ án khởi tố các ông Trần Huỳnh Duy Thức, Lê Công Định, Nguyễn Tiến Trung, Lê Thăng Long. Điều này cho thấy ông vừa dung dưỡng tham nhũng, vừa thẳng tay đàn áp, dập tắt mọi tiếng nói phản biện.
Cạn kiệt ngân sách và hệ quả lâu dài
Thời ông Dũng, nợ công Việt Nam tăng nhanh, ngân sách quốc gia cạn kiệt vì chi tiêu không kiểm soát, vay mượn ồ ạt. Hệ quả còn kéo dài sang tận các thời kế nhiệm, khiến nền kinh tế phải đối mặt với gánh nặng nợ nần, xử lý ngân hàng yếu kém và tái cơ cấu kéo dài.
Vì sao Nguyễn Phú Trọng tìm cách kỷ luật Nguyễn Tấn Dũng?
Năm 2012, tại Hội nghị Trung ương 6, Bộ Chính trị dưới thời Nguyễn Phú Trọng làm Tổng Bí thư đã đề nghị kỷ luật Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Lý do:
Quản lý kinh tế yếu kém, để xảy ra thua lỗ, thất thoát hàng trăm nghìn tỷ đồng.
Dung túng tham nhũng, lộng quyền.
Làm suy giảm niềm tin xã hội.
Tuy nhiên, do thế lực trong Ban Chấp hành Trung ương khi đó còn mạnh, ông Dũng thoát nạn, chỉ bị “nghiêm khắc phê bình”.
Đến năm 2016, với sự liên minh giữa Nguyễn Phú Trọng và Trần Đại Quang, Nguyễn Tấn Dũng mới bị buộc phải rút lui, chấm dứt sự nghiệp chính trị. Đây là kết quả của một cuộc đấu quyền lực gay gắt, nơi ông Trọng tìm cách loại bỏ người được xem là “thủ tướng X đầy tai tiếng”.
Di sản của một thời kỳ suy thoái
Di sản Nguyễn Tấn Dũng để lại là một Việt Nam ngập trong tham nhũng, nợ công, lệ thuộc Trung Cộng và mất niềm tin xã hội.
Nếu như các ông Võ Văn Kiệt và Phan Văn Khải từng được nhớ tới như những nhà kỹ trị cởi mở, thì Nguyễn Tấn Dũng được coi là biểu tượng của tha hóa quyền lực và lợi ích nhóm.
Sự trở lại của Nguyễn Tấn Dũng trước ống kính truyền thông hiện nay không xóa đi được quá khứ ấy, mà ngược lại, chỉ khơi dậy câu hỏi: liệu đất nước có đang tái diễn vòng xoáy quyền lực phe phái, khi những nhân vật từng bị coi là thất bại vẫn còn được tôn vinh, thậm chí được tặng thưởng huân chương cao quý nhất của chế độ?

Tóm lại, Nguyễn Tấn Dũng là một trường hợp điển hình cho sự thất bại của cơ chế tập trung quyền lực nhưng thiếu kiểm soát, nơi Thủ tướng có quá nhiều quyền hành nhưng không bị kiềm chế. Sai phạm của ông không chỉ dừng ở cá nhân, mà còn kéo lùi cả tiến trình phát triển quốc gia.
Sự kiện ông bị Nguyễn Phú Trọng tìm cách kỷ luật, rồi cuối cùng hạ bệ, không chỉ phản ánh đấu đá quyền lực trong đảng Cộng Sản, mà còn cho thấy nội bộ đảng đã thừa nhận mức độ tha hóa nghiêm trọng của những gì mà ông Dũng gây ra.
Ngày nay, khi hình ảnh Nguyễn Tấn Dũng trở lại trước ống kính truyền thông tràn ngập mạng xã hội, điều đó càng đặt ra câu hỏi: Việt Nam liệu có rút ra bài học gì từ giai đoạn đen tối, suy thoái khi ông ấy làm thủ tướng, hay tiếp tục để cho chu kỳ suy thoái tái diễn với những gương mặt chính trị mới như Tô Lâm, với nhóm lợi ích mới như Vingroup?
Theo Đặng Đình Mạnh/NVO
Comments powered by CComment